09:18 - 18/01/2018
Bác sĩ Việt khó làm nghiên cứu
Tuần qua, giới y học Việt Nam xôn xao khi một nghiên cứu trong nước được công bố trên tạp chí New England Journal of Medicine.
Có người nói điều này mở ra hy vọng cho bác sĩ Việt góp tiếng nói với cộng đồng khoa học nước ngoài, nhưng cũng có ý kiến nói mọi chuyện không hề dễ.
BS V., 28 tuổi, tốt nghiệp đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, làm việc hai năm nay tại một bệnh viện hạng nhất của TP.HCM, cho biết anh rất thích nghiên cứu, niềm đam mê được thắp lên từ hồi đi học.
Anh nói: “Tháng 10 năm qua, bệnh viện mở lớp học phương pháp nghiên cứu khoa học, mời thầy bên ngoài vào dạy. Khoảng 100 bác sĩ đăng ký học, nhưng đi học chỉ được 30 người. Học một tháng, lớp còn lại 10 người và đến giờ sau ba tháng chỉ còn… 3 người”.
Theo BS V., anh làm giờ hành chính và không phải trực đêm, nên theo học khá dễ. Trong khi những bác sĩ khác phải trực bệnh viện mỗi tuần 1 – 2 đêm, trực xong mệt nhoài nên không thiết tha với học hành. Chưa kể bác sĩ V. có điều kiện kinh tế, không bận bịu làm thêm ngoài giờ như những đồng nghiệp khác, dễ tập trung học hơn.
“Nghiên cứu khoa học là một hình thức để học hỏi và nâng cao chuyên môn, vì khi tham gia nghiên cứu người ta phải đọc tài liệu, nhưng thực tế sau khi ra trường và đi làm, đa phần bác sĩ trẻ như tụi em không làm được. Gánh nặng cuộc sống và công việc dần dần làm cho mục tiêu nghề nghiệp phai nhạt”, bác sĩ V. nói thêm.
Thực tế bệnh viện công lập nào cũng có phong trào nghiên cứu khoa học và hàng năm đều tổ chức hội nghị khoa học kỹ thuật, nhưng theo một giảng viên đại học y khoa, nghiên cứu có giá trị không bao nhiêu, chủ yếu là hình thức tổng kết số liệu, báo cáo ca bệnh lâm sàng, còn nghiên cứu có tính mới và ứng dụng hầu như rất ít.
“Về học thuật, những nghiên cứu này không có giá trị vì chúng làm không chuẩn mực, khá sơ sài, đơn giản và chưa từng hoặc không có ý định công bố trên bất kỳ tạp chí khoa học bình duyệt nào của nước ngoài”, giảng viên này nói.
Tháng 11/2017, thông tin Việt Nam xếp thứ 57/163 nước về nghiên cứu khoa học trong bảng xếp hạng Nature Index của tạp chí danh giá Nature, làm “nức lòng” không ít người. Nhưng theo một phân tích sâu của GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc), thực tế năng suất nghiên cứu của khoa học Việt Nam thấp hơn kỳ vọng, ngang với các nước nghèo, vì số lượng công bố trên các tạp chí khoa học danh giá của Việt Nam quá thấp.
Trong danh sách mười trường, viện hàng đầu Việt Nam do Nature Index công bố, xếp đầu là viện Hàn lâm khoa học, thứ hai là đại học Tôn Đức Thắng. Trường y khoa duy nhất lọt được vào là đại học Y dược TP.HCM, nhưng xếp thứ 8/10.
Thực tế có nhiều khó khăn để nghiên cứu y học Việt Nam góp mặt vào sân chơi thế giới. Khó khăn đầu tiên là kinh phí hạn hẹp. Tại hội nghị “Phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2017 – 2025” vào tháng 7/2017, một nghiên cứu cho thấy tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ của các trường đại học hiện nay rất khiêm tốn. Bản thân bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo Phùng Xuân Nhạ cũng thừa nhận: “Kinh phí đầu tư còn hạn chế, nhiều thủ tục hành chính, gây cản trở và chưa khuyến khích nhà khoa học tích cực tham gia nghiên cứu”.
Nghiên cứu cho thấy đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ ở nước ta bình quân cả giai đoạn 2011 – 2015 vào khoảng 1,7% ngân sách nhà nước – tương đương 0,4% GDP, thấp so với các nước láng giềng là Thái Lan là 0,48%, Malaysia 1,26% và Singapore là 2,2%.
Một cản trở khác để nghiên cứu khoa học Việt Nam không xuất hiện được trên thế giới là năng lực sử dụng tiếng Anh của bác sĩ trong nước, khá hạn chế. Năm qua bác sĩ H., 40 tuổi, cũng hứng thú với nghiên cứu khoa học khi theo học một lớp dạy làm nghiên cứu do bệnh viện tổ chức.
Cô nói: “Để theo đuổi mục tiêu, trước mắt tôi phải khắc phục điểm yếu sử dụng tiếng Anh bằng cách luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết qua một lớp ILETS, vì kỹ năng nào của tôi cũng tệ quá”.
Thế là sau giờ làm, bác sĩ H. tất bật đến một lớp học Anh văn khá xa nhà. Sau ba tháng, gặp lại, cô nói mình đã nghỉ học vì về nhà không sao làm được các bài tập do thầy, cô đưa ra vì bận công việc chuyên môn, tham gia trực gác và lo toan gia đình.
BS X., giảng viên đại học Y dược TP.HCM, từng tham dự nhiều hội nghị y học nước ngoài, cho biết khả năng sử dụng tiếng Anh của bác sĩ Việt khá hạn chế. Ông nói: “Số bác sĩ Việt Nam tham gia làm chủ toạ đoàn hoặc điều phối thảo luận ở các hội nghị này đếm trên đầu ngón tay. Họ chủ yếu đi dự để nghe, ít dám thắc mắc hoặc trao đổi trực tiếp với đồng nghiệp. Nhưng như thế còn may vì phần lớn bác sĩ Việt đi hội nghị nước ngoài chủ yếu để tham quan, du lịch, mua sắm, một hình thức trả ơn của công ty dược”.
Tháng 12/2017, tại hội nghị tầm cỡ diễn ra ở TP.HCM với chủ đề “Đổi mới đào tạo y khoa ở Việt Nam”, do bộ Y tế và USAID (cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ) tài trợ, đại học Y dược TP.HCM tổ chức, người ta ít thấy những bài trình bày hoặc thảo luận bằng tiếng Anh. Ngay cả cuốn tài liệu hội nghị cũng để lọt một số lỗi tiếng Anh khó chấp nhận. Cánh cửa ngôn ngữ chưa lọt qua, làm sao bác sĩ Việt đi ra được thế giới?
bài, ảnh Châu Giang
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này