16:42 - 14/02/2018
Người ‘cứu rỗi’ cái miệt sông nước
Ở một góc nhìn lịch sử, đạo diễn Đỗ Khuê đang làm công việc gom góp và gìn giữ lại những giá trị văn hoá bản địa của làng quê, qua những khung hình và thước phim sống động.
– Đưa ra tiêu chí “những câu chuyện nhỏ” về cái nhà quê, làm sao anh có thể gây được thu hút của khán giả vốn thích những thứ quy mô, cao kỳ?
– Với tiêu chí đó, tôi không bị làm khó mà còn nói được nhiều chuyện, giúp cho khán giả truyền hình Cần Thơ thấy được chính đời sống của họ. Nhờ vậy “mục” đã tồn tại được năm năm nay, một năm 52 kỳ… Giờ đã làm được hơn ba trăm phim. Tôi là người sản xuất thôi, nhà đài lo kinh doanh, quảng cáo để lấy tiền trả tiền làm phim cho chúng tôi, đạt được thoả thuận này, lúc đó chúng tôi mới làm. Và đồng thời được cái mà dân trong nghề cho rằng “được tự do” – mình tự do chọn đề tài chứ không bị “ép” đề tài. Trong thăm dò ở nhà đài, đó là chương trình mà đặc biệt từ quan chức đến dân thường đều thích. Ai cũng thích. Nhưng cũng có một chi tiết, tính ra, theo tôi cũng hơi táo bạo ở chỗ là người dẫn chương trình của chúng tôi ban đầu không phải là một cô gái đẹp mà tôi chọn một thầy giáo già… khi chạy demo ai cũng lo không biết có thu hút khán giả hay không? Nhưng tôi tính toán, nếu đưa ông giáo già lên thì có liền khán giả là học trò của ông ấy, vì ông ấy là thầy giáo có rất nhiều thế hệ học trò và không ngờ thành công. Ngay bản thân trong đài, cũng có người e dè, nhưng sau vài tuần là ổn hết, đông người xem. Đó là thầy Lê Phước Nghiệp, dạy học từ trước giải phóng đến giờ nên có nhiều thế hệ học trò. Tôi cũng quen biết ông lâu rồi. Tới bây giờ, không ai biết tôi là ai, nhưng biết thầy Nghiệp rất nhiều.
Lúc đó tương tác giữa nhà sản xuất với khán giả là một website của đài Truyền hình Cần Thơ. Trên trang web này, chúng tôi kêu gọi khán giả gởi câu chuyện của xóm làng họ tới và sau đó chúng tôi phối hợp với họ đến làm ngay tại chỗ.
– Hình như anh làm mục “Cần Thơ Phố” không chỉ vì yêu nghề mà là “Yêu quá Cần Thơ này” chăng?
– Khởi đầu tôi nghĩ chỉ làm một chương trình truyền hình gần gũi với người xem, dần dần thấy vỡ ra nhiều giá trị mà trước đó tôi không dự liệu: đó là giá trị lao động của nhiều người, nhiều tầng lớp xã hội, nhiều phận người. Đặc biệt là qua văn hoá ẩm thực. Trước đây bản thân mình thích ăn ngon, nhưng ít khi quan tâm món ăn đó vì sao ngon và liệu nó có còn tồn tại đến đời con cháu mình không? Những người đi xa quê trở về trong mười hay hai mươi năm tới có còn được nếm hương vị quê nhà này không? Khi làm mới thấy rõ điều mình cần phải lưu giữ, những giá trị thiết thực, chính là món ăn hồn người. Muốn làm nên một món ăn phải thực hiện như thế nào, mỗi món ăn một câu chuyện: văn hoá, truyền thống, ý nghĩa nhân văn, v.v. Sau này thành một phản xạ hễ thấy một món ăn là phải hỏi cho ra câu chuyện. Điều thú vị là hầu hết các món ăn đều có câu chuyện khởi đầu của nó, món lớn món nhỏ gì cũng có. Khi làm mới thấy cũng từ những món ăn này mà tôi gần gũi với nhiều người hơn. Ăn miếng ngon của họ nấu mà mình biết thưởng thức, giống Bá Nha Tử Kỳ, bỗng dưng “cảm nhau”. Hầu hết những nhân vật trong phim sau này đều trở thành bạn tôi hết. Rồi mỗi lần gặp gỡ nói chuyện này kia lại ra một đề tài mới. Đó là điều hấp dẫn mà đến bây giờ tôi thấy càng ngày càng hấp dẫn.
– Phải chăng những sản vật trưng bày trong căn nhà anh là những nhắc nhớ, những thứ nam châm hấp dẫn anh hoài?
– Lúc tôi làm đến các nhân vật làm nghề, có người đùa với tôi: “Làm sao làm chớ ông chết là hết đề tài”. Ngay từ đầu tôi đã không dại dột làm khó mình nên mới nói chỉ làm chuyện nhỏ. Làm nghề là phát hiện. Và thêm nữa là bản thân mình cũng ngạc nhiên về mình từng ngày khi tự thấy khả năng tiếp cận và thích nghi với cái mới của mình ngày càng nhạy hơn.
Cố làm sao để cho mọi người thấy được vẻ đẹp đời thực, không phải kiểu kêu gọi lòng lân tuất, họ mới nảy sinh tình cảm và mong muốn cùng được gìn giữ. Đó mới là giá trị vẻ đẹp khốn khó chân quê. Nhưng muốn gìn giữ vẻ đẹp ấy, cần phải để cho người đang tạo ra nó bớt khổ đi, hay không còn khổ nữa. Quay phim về một nhân vật như dì Hai đương giỏ lùng, bản thân một sản phẩm dì đương cũng có một đời sống của nó. Đó cũng chính là những giá trị văn hoá cho du lịch Cần Thơ trong đó, ẩm thực, làng nghề đều là những nét riêng độc đáo nổi trội. Tôi vừa làm phim, vừa hay la cà để tư vấn cho nông dân làm du lịch.
– Trong hơn ba trăm chương trình đã phát sóng, có chương trình nào mà sau khi phát lên, bà con ở vùng đó bắt đầu thay đổi, cả lối sống lẫn việc ý thức giữ gìn giá trị truyền thống, để có thể sống được với nơi đã mang lại cho họ những giá trị rất riêng ấy chưa?
– Do bối cảnh xã hội mà còn có nhiều cảnh đời khó mà thay đổi. Nhưng khi chúng tôi làm phim, đề cập đến chuyện cụ thể, nói cho họ, thậm chí là tiếp sức cho họ để sau này họ có cơ hội thay đổi. Những nhân vật cụ thể như vậy, sau này trở thành một “tấm gương” cho những vùng khác… Cồn Sơn là một ví dụ rất rõ. Khi chúng tôi xuống Cồn Sơn hai năm trước còn hoang sơ, không có cái gì có thể làm được. Như hồi lúc đầu, chị Bảy Muôn lúc đó còn không biết tiếp khách du lịch thế nào, không biết nói chuyện gì hết. Giờ thì chị đã biết tổ chức không gian văn hoá cho chính ngôi nhà mình, từ cái bếp cổ đến hũ mắm cá đồng, hay những món bánh truyền thống cho khách tự làm, v.v. và nói năng lưu loát, lanh lẹ hẳn. Sau khi tôi với nhà báo Hoàng Tuyên xuống làm chương trình, kết nối, và họp mặt các hộ gia đình để họ cùng làm với tinh thần sẻ chia chứ không cạnh tranh, chơi xấu. Chỉ hai năm Cồn Sơn giờ đã rất… nổi tiếng. Tôi vui và hạnh phúc với cái nhà quê của mình.
Trần Hoài thực hiện
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này