
15:45 - 05/04/2025
Sản xuất lúa gạo trong kỷ nguyên mới
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) lượng gạo xuất khẩu đã lên đến 9,18 triệu tấn trong năm 2024, mang về doanh thu trên 5,7 tỷ USD. Ước tính tổng lượng gạo xuất khẩu trong quý I năm nay trên 2,25 triệu tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2024.

Ứng dụng cơ giới hóa vào quá trình trình canh tác ở Công ty nông nghiệp công nghệ cao Trung An. Ảnh: HL.
Tăng tỷ trọng gạo chất lượng cao
Trước đây, gạo Việt Nam chủ yếu là gạo trắng, gạo tẻ, chất lượng trung bình và giá thấp, không hơn các nước khác ở châu Á, đã dần thay đổi về giá trị của lúa gạo, tạo ra những sản phẩm gạo khác biệt, nâng cao chất lượng và giá trị. Giá lúa đã tăng lên đáng kể (tối thiểu từ 6.000 đồng/kg so với mức 3.000 đồng/kg trước đây). Gạo cấp thấp ngày càng ít đi, chuyển dịch lên phân khúc gạo chất lượng cao, tăng tỷ trọng gạo thơm, Japonica, gạo đặc sản và các sản phẩm gạo có giá trị cao – Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), mô tả chuyển biến dòng chảy gạo xuất khẩu.
Theo ông Nam, bên cạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chủ động nhập khẩu khoảng 3 triệu tấn năm 2023 và 3,8 triệu tấn năm 2024 từ nước láng giềng Campuchia để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Việc này mang lại lợi ích cho cả người bán và người mua, tạo đà để Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị trường lúa gạo thế giới.
Tại hội thảo “Định vị hạt gạo Việt Nam trong kỷ nguyên mới” diễn ra ngày 4/4, do Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ và Trang Việt Nam Đầu Tư phối hợp tổ chức, ông Nam cho rằng mặc dù đang bị “đứt” thị trường Indonesia nhưng thị trường truyền thống như Philippines, châu Phi vẫn được duy trì nhờ sự khác biệt về chất lượng và giá cả. Trước đây, châu Á là thị trường trọng điểm, chiếm khoảng 72% tổng lượng xuất khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp đã khai mở thị trường châu Phi (18%), Trung Đông (2%), châu Âu, châu Mỹ và châu Đại Dương (4%).
Việt Nam đặt mục tiêu năm 2025, tỷ trọng gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình không quá 15%, gạo thơm, Japonica, gạo đặc sản khoảng 40%. Đến năm 2030, tỷ trọng gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình không quá 10% và tỷ trọng gạo thơm, Japonica, gạo đặc sản khoảng 45%.
Cũng theo ông Nam, Việt Nam tiếp tục nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm lúa gạo để tạo ra sự khác biệt trên thị trường thế giới. Việc xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo hiệu quả, từ sản xuất đến tiêu thụ, nhằm gia tăng giá trị gia tăng cho nông dân và doanh nghiệp. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nông dân để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan luôn có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, hoàn thuế, cơ sở hạ tầng logistics. Do đó, ông Nam kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước hỗ trợ về chính sách tài chính, cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu lương thực, trong đó có gạo. Đặc biệt là về thời hạn cho vay, cần mở rộng khoản vay trung và dài hạn do có những thị trường phải cho công nợ.
Nguồn lực và biến động thị trường
Phân tích về hoạt động của ngành lúa gạo Việt Nam, theo ông Nam, hoạt động của ngành lúa gạo Việt Nam hiện nay đứng trước những tình huống:
Thứ nhất, sản xuất và xuất khẩu từ sản phẩm trong nước: diện tích trồng lúa ở Việt Nam có xu hướng giảm theo định hướng của Chính phủ và ngành nông nghiệp, sản lượng dự kiến chỉ còn từ 3 – 4 triệu tấn gạo. Nếu mở rộng thị trường xuất khẩu thì nguồn cung trong nước có thể không đủ. Không mở rộng thị trường thì có thể bị ép giá.
Nói về thị trường xuất khẩu tiềm năng, ông Nam nhận định Philippines là một ví dụ điển hình về thị trường quan trọng của Việt Nam. Người tiêu dùng Philippines đã quen với gạo Việt Nam, nhu cầu nhập khẩu gạo của Philippines rất lớn. Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho nước này. Mở rộng thị trường xuất khẩu là cần thiết để ổn định đầu ra cho hàng hóa gạo của Việt Nam nhưng cần có chiến lược ổn định cho từng thị trường cụ thể.
Đối với thị trường Trung Quốc, đã có lúc Việt Nam mất thị phần do chính sách dự trữ của nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là một thị trường tiềm năng lớn, đặc biệt khi họ cần bổ sung nguồn cung.
Đối với các thị trường châu Phi, cần cân nhắc các yếu tố đặc thù như: Yêu cầu về hình thức thanh toán (cho nợ, kéo dài thời gian thanh toán); ảnh hưởng đến tài chính và hạn mức tín dụng của doanh nghiệp…
Thứ hai, các doanh nghiệp đã chủ động thu mua lúa gạo từ các nước láng giềng như Campuchia – Nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Việc này mang lại lợi ích cho cả người bán và người mua, ví dụ như nông dân Campuchia thích bán cho Việt Nam nhờ giá tốt.
Về nhập khẩu lúa gạo (từ Campuchia) có ý nghĩa trong việc đảm bảo nguồn cung cho người tiêu dùng trong nước, đặc biệt là người nghèo. Mục tiêu chính của việc mở rộng thị trường là ổn định hàng hóa và đảm bảo an toàn lương thực, chứ không chỉ là tăng sản lượng xuất khẩu.
Về giá, ông Nam cho rằng, cần xác định rõ đối tượng mua để có chính sách giá phù hợp, đảm bảo lợi ích của cả người bán và người mua, cũng như an ninh lương thực trong nước.
Thời gian qua giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm sâu ở phân khúc gạo OM18, OM5451 và IR50404 xuất đi cá thị trường Philippines, Indonesia và Châu Phi do nhà nhập khẩu giảm mua. Trong khi tất cả các loại gạo cao cấp khác không xuất khẩu vào thị trường này vẫn giữa giá, thậm chí còn tăng như gạo ST25, Japonica. Trong khi đó năm 2024 Tập đoàn Tân Long đã xuất khẩu được 5.000 tấn gạo Japonica đi Nhật Bản và năm 2025 dự kiến xuất khẩu 50.000 tấn.
Kinh nghiệm định vị thương hiệu của Tân Long
Ông Trương Mạnh Linh, Giám đốc điều hành ngành gạo (Tập đoàn Tân Long), tổng giám đốc Công ty cổ phần Lương thực A An, cho biết : Khi đưa gạo Việt thâm nhập vào thị trường Nhật, biết rõ đây là thị trường chuẩn mực, thậm chí rất khó tính.
Tân Long bước vào thị trường này với chính thương hiệu A An. Túi gạo của tân Long đang phân phối ở thị trường nội địa như thế nào thì, cũng chính túi đó mang thương hiệu tân Long cũng nằm trên kệ của thị trường Nhật Bản. Đó là thành công của chiến lược thương hiệu và là điều rất tự hào.
“Muốn vậy, chúng tôi phải chủ động vùng nguyên liệu đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính này. Đặc biệt, phải tuân thủ quy định về thuốc bảo vệ thực vật; phải liên kết với các hộ nông dân sản xuất ở các vùng nguyên liệu, đặt hàng và cử cán bộ kỹ thuật, kỹ sư nông nghiệp của chúng tôi cùng hỗ trợ nông dân, cùng canh tác theo đúng tiêu chuẩn của khách hàng, cam kết đảm bảo đầu ra”, ông Linh chia sẻ thêm: “Chúng tôi cũng đang phát triển thêm thị trường Châu Âu, mục tiêu năm 2025 hướng đến 50.000 tấn đi các thị trường này. So 8 triệu tấn xuất khẩu mỗi năm của Việt Nam thì con số này ít lắm, nhưng nếu không dịch chuyển dần, không tiếp cận các thị trường mới thì sẽ rất khó khăn khi thị trường truyền thống biến động. Giờ đây, chuyển đổi từ nền nông nghiệp sản lượng sang nền nông nghiệp giá trị thì mới bền vững, bắt buộc phải chuyển đổi.
Viện lúa ĐBSCL lưu ý nhiều hơn về phẩm chất gạo. TS Trần Ngọc Thạch – Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL chia giống lúa theo phân khúc gạo gồm có gạo thơm, gạo chất lượng cao, gạo cao sản, gạo nếp, gạo Nhật và gạo có chỉ số đường huyết thấp, có giá trị dinh dưỡng. Đến giờ này, chúng ta có bộ giống tương đối tốt. Tuy nhiên, nếu không tập trung nghiên cứu cải thiện nữa thì giống lúa vốn có vòng đời 10 năm nữa như giống OM5451, OM18 liệu có tồn tại hay không? Trồng 20-30 vụ liên tục thì giống từ kháng sâu bệnh sẽ bị nhiễm sâu bệnh lại. Hiện nay, công tác nghiên cứu chọn tạo giống vẫn lựa chọn những giống phổ biến, tiếp tục cải thiện thêm khả năng chống chịu sâu bệnh bằng cách lai tạo, vẫn giữ được chất lượng gạo và những đặc tính cơ bản của giống đó.
Về công tác lai tạo, Viện lúa ĐBSCL cùng với các doanh nghiệp tham gia vào công tác chọn tạo giống, tự hào phần lớn giống lúa hiện nay trong vùng là đều từ tuyển chọn và lai tạo. Công tác lai tạo giống trải qua một quá trình gian nan. Lúc đầu chọn giống ngắn ngày để trồng trước và sau lũ là giống năng suất cao (từ 85 đến 100 ngày). Dần dần trên nền tảng đó bổ sung thêm khả năng chống chịu sâu bệnh, chống chịu hạn mặn và gần tiếp tục ứng dụng những kỹ thuật, công nghệ mới để tạo ra những chủng loại giống phù hợp phân khúctiềm năng, thị trường cần gạo gì, có giống đó.
“Giống thì không bị động, tuy nhiên, giống phải phù hợp với từng vùng đất và mùa vụ. Vì vậy, chúng tôi rất mong muốn doanh nghiệp và bà con nông dân chúng ta xây dựng thành vùng nguyên liệu cho từng giống, đảm bảo được sản lượng và chất lượng thì uy tín gạo của chúng ta trong thời gian tới sẽ được nâng cao hơn”, ông Thạch đề xuất.
Gia tăng hiệu ứng từ “ Chúng ta”
“Chúng ta có chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp, trong đàm phán với các nước về xuất khẩu gạo, nên đưa thông điệp Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới làm gạo chất lượng cao phát thải thấp với quy mô lớn. Đây là cách tiếp thị mạnh cho thị trường cao cấp”, ông Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Về lâu dài, TS Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam cho rằng các thách thức, khó khăn do sản xuất lúa gạo phải thích ứng biến đổi khí hậu nhưng phải bảo đảm không suy giảm năng suất, suy giảm chất lượng và phải chất lượng cao, bán được giá cao… sản xuất lúa gạo tạo ra khí nhà kính nhiều nhất trong nông nghiệp. Theo cam kết của Việt Nam đạt Net Zero vào năm 2050, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ra đời là để giải quyết vấn đề đó.
“Chúng ta”, trong đó mong muốn người nông dân phải ổn định thu nhập, sản xuất lúa phải có lời so với các loại trồng trọt khác, lúa gạo phải ổn định, chất lượng cao, an toàn thực phẩm…Đề án không chỉ nhìn sản xuất lúa gạo mà còn phải nhìn người nông dân để giải quyết vấn đề, TS Tùng nhấn mạnh.
Giống lúa mới luôn có, kỹ thuật mới luôn có, quy trình mới luôn có, doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo luôn có, thị trường luôn có, thì vấn đề còn lại là từ người nông dân, ông Tùng phân tích thêm : “Chúng ta nói nông nghiệp – nông thôn – nông dân, nhưng thực tế làm nông nghiệp, nông thôn thì cũng đã làm với đường sá, logistics, nông thôn mới, còn đời sống nông dân chưa quan tâm tới nhiều, không ai làm thay đổi cách suy nghĩ của người nông dân. Đây là mấu chốt của vấn đề mà đề án cần giải quyết và thực sự là một thách thức lớn
7 mô hình thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, tăng trưởng xanh tại 6 tỉnh, thành ở ĐBSCL giai đoạn 2024-2025 có kết quả tích cực. So sánh với phương pháp canh tác truyền thống, cho thấy lợi ích vượt trội như: Giảm lượng giống gieo sạ đến 50%; giảm lượng phân bón đạm và thuốc bảo vệ thực vật hóa học 30%; giảm đổ ngã và tổn thất sau thu hoạch khoảng 5%; giảm phát thải khí nhà kính trung bình 5 tấn carbon/ha/vụ. Đồng thời, tăng lợi nhuận cho nông dân khoảng 5 triệu đồng/ha/vụ. Làm sao cho các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị được hài hòa lợi ích và chia sẻ rủi ro cho nhau. Ông Tùng cho rằng, để đảm bảo thành công của Đề án, việc tăng cường liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo là vô cùng quan trọng.
Đối với các địa phương, cần xác định và công bố diện tích tham gia đề án để thu hút doanh nghiệp liên kết; hỗ trợ nâng cao năng lực làm dịch vụ và liên kết của nông dân và hợp tác xã (HTX); nâng cao chất lượng HTX để làm đầu mối kết nối nông dân và doanh nghiệp; Hội nông dân và khuyến nông cộng đồng làm cầu nối kết nối nông dân, HTX và doanh nghiệp.
“Tôi đề xuất mô hình tích tụ ruộng đất và doanh nghiệp hóa nông nghiệp: Mô hình doanh nghiệp lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, tích tụ ruộng đất của nông dân để tạo ra quy mô sản xuất lớn và nâng cao năng suất. Trong mô hình này, nông dân sẽ góp đất vào doanh nghiệp như một hình thức cổ phần, đồng thời trở thành công nhân của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp hóa phải làm minh bạch và công khai”, TS Nguyễn Đình Thắng, Phó Chủ tịch Hội Truyền Thông số Việt Nam, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Công nghệ Hồng Cơ nhấn mạnh phải tích tụ ruộng đất đầu tiên. Từ đó, mới ứng dụng được công nghệ, tạo thành doanh nghiệp.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp cần có không gian để ứng dụng công nghệ hiện đại như máy móc, thiết bị tự động, máy bay không người lái vào sản xuất nông nghiệp giúp nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
“Công dân số hóa nông dân là yêu cầu hết sức quan trọng”, TS Đình Thắng cho rằng: “Chuyển đổi nông dân thành “công dân số”, trang bị cho nông dân các kỹ năng số hóa, khả năng sử dụng công nghệ thông tin, kết nối với doanh nghiệp… sẽ giúp nông dân tham gia hiệu quả vào quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Cuối cùng là vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch vùng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, chính sách khuyến khích, đào tạo và tuyên truyền để thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình nông nghiệp mới.
Ngọc Bích (theo TGHN)
Ngày đăng: 5/4/2025
Có thể bạn quan tâm
Đề xuất thúc đẩy nguồn cung cho thị trường giao dịch đất nông nghiệp
ĐBSCL: Giá lúa tăng nhẹ sau quyết định cho xuất khẩu gạo trở lại
30.000 tấn gạo thơm ĐBSCL được hưởng thuế suất 0% khi sang EU
[Video] Khởi nghiệp với trái Dừa Cười
1,3 triệu người di cư, đồng bằng đang tan rã?
Tin khác


Mini Show ‘Khởi nghiệp xanh Go Global’: Mở ra không gian sáng tạo kết nối đào tạo với thực tiễn























































Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này