19:29 - 07/09/2016
Công nghệ plasma lạnh xử lý nước sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản tại ĐBSCL
Cuối tháng 8 vừa qua đề tài Nghiên cứu ứng dụng công nghệ plasma lạnh xử lý nước sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong khuôn khổ chương trình khoa học công nghệ vùng Tây Nam bộ, thực hiện hai năm, thí điểm mô hình tại Cần Thơ, Vĩnh Long và Sóc Trăng, đã chính thức khởi động.
Hiện nay, tỷ lệ người dân trong vùng được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 75,82%; tỷ lệ sử dụng nước đạt QCVN 02:2009/BYT chiếm tỷ lệ 36,52%.
TS Phạm Văn Toàn, đại học Cần Thơ, cho biết: tổng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt nông thôn vùng ĐBSCL vào các năm 2020 và 2050 lần lượt là 2.230.000 và gần 3.000.000m3/ngày – đêm.
Mục tiêu chính của chương trình là 100% dân số sẽ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, ít nhất 80% sử dụng nước đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt QCVN 02:2009/BYT vào năm 2020.
Các loại hình cấp nước chủ yếu là công trình cấp nước tập trung, giếng khoan, giếng đào, bể chứa, lu chứa nước mưa và nước hộ gia đình.
Hai nguồn nước sử dụng cấp nước sinh hoạt chính ở ĐBSCL gồm: Nước mặt: nguồn nước có trữ lượng lớn, phân bố rộng khắp trong vùng, dễ vận chuyển và khai thác. Tuy nhiên, chất lượng ít nhiều bị ô nhiễm và biến động theo mùa và theo vị trí; Nước ngầm: là nguồn nước cấp quan trọng cho những vùng không tiếp cận được nước cấp đảm bảo chất lượng, nhất là các vùng xa nguồn nước ngọt; bị nhiễm phèn, nhiễm mặn…
Trữ lượng phân bố không đều theo bề mặt và theo chiều sâu. Chất lượng biến động, nhiều nơi bị nhiễm phèn, mặn, nitrate, asen cần phải xử lý để đảm bảo chất lượng.
Việc khai thác không kiểm soát được dẫn đến khai thác quá mức gây hạ mực thuỷ cấp, sụt lún, ô nhiễm nước ngầm.
Theo TS Nguyễn Văn Dũng, khoa công nghê,̣ đại học Cần Thơ, chủ nhiệm đề tài, bốn ưu điểm lớn nhất của công nghệ này là: Công nghệ “xanh”, không sử dụng chất hoá học nhưng diệt khuẩn hiệu quả; Thời gian xử lý ngắn (nước qua hệ thống xử lý từ 1 – 2 lần); Chi phí xử lý thấp, kích thước nhỏ gọn; Phân rã hợp chất hoá học hữu cơ.
Chi phí lắp ráp thiết bị từ 10 – 20 triệu đồng/hộ, vì thế các hộ gia đình có thể tự mình xử lý nước sinh hoạt, với chi phí 2.000 – 3.000 đồng/m3 (giá nước sinh hoạt hiện nay là 5.000 – 6.000 đồng/m3).
Với kinh phí 3 tỷ đồng để thực hiện chương trình, TS Nguyễn Văn Dũng kỳ vọng, sau hai năm thí điểm ở ba tỉnh, sau khi đánh giá hiệu quả, đại học Cần Thơ sẽ tìm nguồn tài trợ để nhân rộng cho các tỉnh khác.
Về khả năng triển khai và nhân rộng mô hình đối với lĩnh vực thuỷ sản, TS Nguyễn Văn Dũng cho biết sẽ chọn hai mô hình thí điểm trên cá lóc và tôm càng xanh.
Tuy nhiên, do đầu tư nuôi trồng ở quy mô lớn, dẫn tới chi phí đầu tư lớn (2.000 – 3.000 đồng/m3), giá thành cao nên sợ người dân khó tiếp cận được.
Ngọc Bích
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này