
11:51 - 11/10/2025
Nông nghiệp sinh thái: Từ mô hình rời rạc đến hệ thống bền vững
Từ các mô hình lúa – cá, lúa – sen ở Đồng Tháp đến đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ngành nông nghiệp đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng “thuận thiên” – hài hòa giữa sinh thái, khí hậu và sinh kế.
Lợi nhuận thấp, làm sao để thoát nghèo?
Tại Hội nghị “Thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) và Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) phối hợp với UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức ngày 6/10, ông Vinod Ahuja, Trưởng đại diện FAO tại Việt Nam, khẳng định nông nghiệp sinh thái đóng vai trò quan trọng trong giải quyết tình trạng mất đa dạng sinh học, chuyển đổi hệ thống an toàn thực phẩm và thúc đẩy nông nghiệp bền vững.
Thị trường cho sản phẩm sinh thái đang tiếp tục tăng trưởng ở cả Việt Nam và quốc tế, với nhu cầu tiêu dùng thực phẩm lành mạnh, có nguồn gốc sinh thái là xu thế chung. Thị trường hữu cơ toàn cầu đã tăng trưởng đến khoảng 135 tỷ USD.
“Trên thực tế, các mô hình đang phát triển rời rạc, quy mô nhỏ, hiệu quả thấp. Nhiều nơi xây dựng được hạ tầng chính sách nhưng nền tảng kỹ thuật tại nông trại lại yếu, đất đai thoái hóa, nguồn nước suy giảm, logistics hạn chế, tổn thất sau thu hoạch cao…” – ông Bùi Hoài Nam, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, nhận xét.
Giai đoạn 2010–2025, cả nước có 275 mô hình nông nghiệp sinh thái, trong đó 60% thực hiện trong 5 năm gần đây, khi Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Hơn 60% dự án sử dụng vốn ODA, trong khi nội lực trong nước và khu vực tư nhân vẫn khiêm tốn.
Tại ĐBSCL, các mô hình sinh kế mùa lũ tại vùng đệm Khu bảo tồn Láng Sen đã chứng minh hiệu quả về mặt môi trường và tăng thu nhập bước đầu. Ông Nguyễn Công Toại, Giám đốc Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, chia sẻ: “Mô hình lúa mùa nổi mang lại lợi nhuận 17-19 triệu đồng/ha/vụ và trồng sen nuôi cá đạt lợi nhuận 32 – 40 triệu đồng/ha/năm, đồng thời giúp giảm 73% canh tác lúa 3 vụ. Ngoài ra, Mô hình lúa giảm phát thải giúp giảm khả năng khí nhà kính (CH4 37-39%, N2O 19-30%). Các mô hình như trồng nấm rơm, đan lục bình còn giúp tận dụng nguồn rơm, lao động nhàn rỗi và khuyến khích sự tham gia của phụ nữ”.
Tuy nhiên, ông Toại thừa nhận, những hạn chế hiện rõ bao gồm thị trường tiêu thụ chưa ổn định, người dân ít tìm hiểu thị trường và năng lực cán bộ địa phương còn khó khăn.
Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VIETRISA tóm tắt 3 thách thức lớn của nông nghiệp ĐBSCL: BĐKH tác động đến sản xuất, sản xuất làm BĐKH tiêu cực thêm. Làm sao hài hòa hai yếu tố này để giữ được sinh kế. Điểm sáng là sau gần hai năm triển khai, đề án 1 triệu ha đã thay đổi rõ rệt nhận thức của người sản xuất, tạo sự đồng thuận cao. Mục tiêu lớn nhất của đề án 1 triệu ha và Nghị quyết 120 là hài hòa ba yêu cầu: vừa thích ứng BĐKH – không làm BĐKH tiêu cực – vừa giữ được sinh kế của người dân.
Xây dựng hệ thống hỗ trợ từ chính sách tới thị trường
Để giải quyết vấn đề lợi nhuận và thị trường, ông Vinod Ahuja cho rằng cần có sự can thiệp và đầu tư thực tế vào chuỗi giá trị.
Ông Vinod Ahuja, chỉ ra 3 yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy thị trường và nâng cao hiệu quả hệ thống.
Thứ nhất là phát triển quan hệ đối tác và HTX: Điểm vào HTX là một trong những xuất phát điểm quan trọng để thực hiện các can thiệp, giúp tổ chức sản xuất có hệ thống hơn do đặc thù sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ ở Việt Nam.
Thứ hai là Chuyển đổi số: Các công cụ chuyển đổi số, đặc biệt là thương mại điện tử, là công cụ giúp rút ngắn thị trường, rút ngắn chuỗi cung ứng và cho phép người nông dân làm việc trực tiếp với thị trường một cách hiệu quả hơn.
Thứ ba là Kết nối đơn vị tiêu thụ: Việc kết nối các siêu thị, bán lẻ, nhà hàng khách sạn rất phù hợp để thiết lập quan hệ đối tác và đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Bà Huỳnh Kim Định, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ NN&MT), cho biết trong quá trình phát triển và duy trì mô hình, Trung tâm gặp nhiều khó khăn vì cần phải có những người nông dân chuyên nghiệp. Những người này phải như thủ lĩnh cộng đồng, bền bỉ, kết nối thêm nông dân, cũng như phát triển, mở rộng mô hình. Khi tập huấn, chuyển giao, Khuyến nông cũng đã đi theo hướng sản xuất từ số lượng sang sản xuất theo chất lượng, áp dụng cho cả những mô hình canh tác đa tầng trong vùng bảo tồn đa dạng sinh học, đa dạng sinh tế. Các mô hình phát triển sinh kế như lúa-tôm, dược liệu dưới tán rừng đã phát huy tác dụng và được người nông dân đón nhận.
Theo bà Định, khi hướng tới nông nghiệp sinh thái, nông thôn thông minh, chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn, vai trò của khuyến nông phải được nâng tầm. Nhiệm vụ của khuyến nông không thể chỉ dừng lại ở việc truyền đạt các chính sách hay chuyển giao kỹ thuật. Khuyến nông phải đóng vai trò là người dẫn dắt sự đổi mới. Trong thời gian qua, Trung tâm đã tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa người nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp và thị trường. Thời gian tới, trung tâm khuyến nông cùng hệ thống khuyến nông sẽ tiếp tục tăng cường đào tạo, truyền thông, thay đổi nhận thức nhằm hướng tới ngành nông nghiệp xanh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Thành Diệu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, chia sẻ về chiến lược phát triển nông nghiệp thích ứng của tỉnh, dựa trên đặc điểm vùng sinh thái đa dạng của vùng hạ lưu sông Mekong.
Đồng Tháp xác định ba trụ cột để chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm. Thứ nhất, tỉnh chú trọng tổ chức lại sản xuất, coi tổ hợp tác và HTX đóng vai trò hết sức quan trọng, bên cạnh kinh tế hộ và các tổ chức trung gian, khuyến nông cộng đồng là cầu nối giữa tri thức nông dân. Sản phẩm nông nghiệp phải rút ngắn thời gian, giảm chi phí từ người dân ra thị trường, nông dân hiểu biết để nâng tầm sản phẩm đi ra thế giới. Sản phẩm gắn với các tiêu chuẩn , thị trường trong nước là một thị trường xuất khẩu tại chỗ.
Thứ hai, để tạo sự thay đổi từ trong suy nghĩ người dân. Đồng Tháp mong muốn xây dựng một đội ngũ công nhân nông nghiệp, coi mảnh ruộng là nông trại, là điều cốt lõi tạo ra lợi nhuận bền vững để người dân, nhà nước và doanh nghiệp yên tâm đầu tư, phát triển ngành nông nghiệp.
Thứ ba, tỉnh tập trung xây dựng hệ thống thương mại, bao gồm việc thu hút đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, bảo đảm lưu thông thông suốt hiệu quả. Nhà nước đầu tư hạ tầng, người nông dân đầu tư công cụ để kết hợp lại.
Ông Diệu nhấn mạnh: “Người nông dân muốn thấy thật, nhìn thật, tin tưởng thật để làm thật, đó là con đường tất yếu”.
Về đa dạng hóa giá trị và nguồn tài chính, ông Huỳnh Quốc Tịnh, Giám đốc Chương trình Nông nghiệp và Lương thực thực phẩm bền vững WWF – Việt Nam khuyến nghị không chỉ nói về lợi ích kinh tế mà cần khám phá giá trị mới của mô hình, chẳng hạn thu nhập từ du lịch trải nghiệm (mô hình trữ cá mùa lũ có thể thu từ du lịch 100 triệu đồng, trong khi cá chỉ 50 triệu đồng). Bên cạnh còn có lợi ích cải thiện sức khỏe đất. WWF mong muốn phát triển thị trường cho sản phẩm sinh thái, đa dạng hóa sản phẩm chế biến và FAO thúc đẩy phát triển các chương trình về chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm. Cần tìm ra các nguồn tài chính mới như cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái, ngoài chi trả dịch vụ môi trường rừng, để người dân duy trì thực hành canh tác bền vững.
Trọng tâm hoạt động của WWF là phát triển hệ thống sinh kế mùa nước nổi tại ĐBSCL nhằm bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và giúp hệ sinh thái phát triển bền vững. Khu vực này có tiềm năng lớn để tăng bồi lắng phù sa, trữ nước và thu hút các loài di cư, theo ông Christopher Howe, Quản lý Chương trình sáng kiến vùng đồng bằng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, WWF – Quốc tế.
WWF khuyến khích quay lại phương thức canh tác truyền thống nhưng áp dụng công nghệ khác, tìm ra các mô hình sinh kế phù hợp và đa dạng như lúa mùa nổi, lúa cá, lúa sen, tôm rừng. Việc đa dạng hóa sản phẩm và phát triển thị trường là động lực quan trọng giúp người nông dân yên tâm sản xuất sinh thái.
Nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam là hành trình dài từ nhận thức đến hành động, từ các mô hình thí điểm đến nay đã tiến tới thể chế hóa và nhân rộng trong chính sách quốc gia. Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết từ kết quả hội nghị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định 7 nhóm giải pháp trọng tâm để thúc đẩy sự chuyển đổi này, gồm: Thể chế hóa mạnh mẽ nông nghiệp sinh thái trong các chính sách quốc gia, gắn với chương trình tăng trưởng xanh, trung hòa carbon và chuyển đổi hệ thống lương thực; Huy động toàn bộ hệ sinh thái cùng tham gia, từ trung ương đến địa phương, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và nông dân; Đầu tư chiến lược cho khoa học – công nghệ, coi đây là công cụ thực thi triết lý “thuận thiên”; Huy động nguồn lực tài chính xanh, phát triển trái phiếu xanh, quỹ đầu tư carbon, PPP sinh thái và tín dụng xanh; Tài liệu hóa và nhân rộng mô hình thực tiễn, xây dựng Thư viện số nông nghiệp sinh thái Việt Nam; Phát huy vai trò hệ thống khuyến nông cộng đồng, làm cầu nối giữa tri thức và nông dân; Đẩy mạnh truyền thông đa phương tiện, lan tỏa thông điệp “Nông nghiệp sinh thái – thuận thiên – sinh kế xanh”.
Bài, ảnh: Ngọc Bích (theo TGHN)
Ngày đăng: 11/10/2025
Có thể bạn quan tâm
ĐBSCL sẽ ‘suy thoái và tan rã’ nếu xây dựng đập thủy điện Luang Prabang
1.500 đại biểu, doanh nhân tham dự diễn đàn Mekong Connect 2023
Mỹ, Trung Quốc tăng mua cá tra Việt Nam
Doanh nghiệp tiên phong chào ‘hàng Xanh’ tại Mekong Connect 2023
Hơn 680 điểm sạt lở bờ sông ở ĐBSCL
Tin khác


Mini Show ‘Khởi nghiệp xanh Go Global’: Mở ra không gian sáng tạo kết nối đào tạo với thực tiễn























































Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này