10:13 - 13/01/2020
Trò chuyện với chuyên gia Hoa Kỳ về nông nghiệp Ấn Độ
Những ngày mở đầu năm 2020, Thế Giới Hội Nhập được đón tiếp một chuyên gia thân thiết nhiều năm: Tiến sĩ Philippe Zerrillo, một nhà nghiên cứu và giảng dạy đại học từng làm việc ở các đại học lớn hàng đầu của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, và mới đây ông được mời làm hiệu phó trường Đại học Kinh doanh của Ấn Độ (Indian School of Business).
Chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông về phát triển nông nghiệp ở Ấn Độ, có hàm ý với nông nghiệp Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
– Theo ông, Ấn Độ đạt được những tiến bộ gì về mặt ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, đâu là điểm mạnh, điểm yếu của họ?
– Nông nghiệp hiện vẫn là sinh kế chính của Ấn Độ, và theo tôi, lĩnh vực này vẫn còn chưa phát triển. Thủ tướng Modi là người ủng hộ thẳng thắn và mạnh mẽ các sáng kiến đưa công nghệ vào hoạt động nông nghiệp, để cải thiện khả năng cạnh tranh. Ông vẫn tập trung kiên trì vào việc tăng gấp đôi mức thu nhập của nông dân chỉ trong bảy năm, từ năm 2015 – 2022 với tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc 10% và hơn nữa, mỗi năm.
Nhiều chương trình hành động đã được chính phủ tiến hành với mức đầu tư tập trung, nhằm cố gắng:
a/ Làm giảm các yếu tố đầu vào của nông nghiệp, vì nhiều vùng ở Ấn Độ đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, đất đai bị suy thoái.
b/ Giảm tác động tới môi trường sinh thái của nông nghiệp (trong suốt vụ mùa vào mùa thu, nạn đốt cháy rơm rạ để làm đồng, gây ra khí thải ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới 10.000 ca tử vong hô hấp ở một số thành phố lớn nhất miền bắc).
c) Tìm các giải pháp cải thiện chuỗi cung ứng và hỗ trợ nông dân biết thích ứng các khâu cuối của chuỗi cung ứng với sản phẩm của họ khi thu hoạch, nhằm đạt giá trị lớn hơn. Chính phủ liên bang cũng như chính phủ cấp tiểu bang đã bắt đầu nhiều cơ sở ươm tạo thực hành các giải pháp này trong cả nước, để giải quyết các yêu cầu này.
Ấn Độ đang hỗ trợ 17,84% dân số thế giới, 15% dân số làm chăn nuôi chỉ với 2,4% đất đai thế giới và 4% tài nguyên nước. Do đó, phải liên tục đổi mới và nỗ lực hướng tới nâng cao năng suất, tăng hiệu quả quản lý trước và sau thu hoạch, tăng chế biến để gia tăng giá trị, sử dụng công nghệ và xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, là một điều bắt buộc đối với nông nghiệp Ấn Độ.
Vai trò của thế hệ trẻ Ấn Độ trong ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp là gì, thưa ông?
Thẳng thắn mà nói, nông nghiệp thường không hấp dẫn giới trẻ. Theo bộ Giáo dục Ấn Độ, “một tỷ lệ đáng kể thanh niên lứa tuổi từ 14 – 18 đang làm việc (số thống kê là 42%), bất kể họ có đăng ký tham gia vào giáo dục chính quy hay không. Trong số này, 79% làm việc trong nông nghiệp, hầu hết là làm trong ngành nông nghiệp và trong ruộng rẫy của riêng gia đình họ. Tuy nhiên, chỉ có 1,2% mong muốn trở thành nông dân thực thụ. Hiện tại, khi nói đến việc lựa chọn sinh kế, nông nghiệp vẫn đang bị rớt xuống vị trí cuối cùng. Theo khảo sát của cấp quốc gia (2003), thì nếu được lựa chọn, tức là có điều kiện để lựa chọn thì 2/5 nông dân sẽ bỏ nghề nông (MoSPI 2003).
Những con số này khá thẳng thắn và nghiệt ngã, đúng không? Về công nghệ, Ấn Độ đang cố gắng nhiều, nhưng thực tế đất đai vẫn còn quá phân mảnh để áp dụng hiệu quả những công nghệ mong muốn. Đặc biệt là nếu các ứng dụng này không dẫn đến lợi nhuận ngay lập tức, thì nông dân thường không thiết tha.
– Ấn Độ có tập trung xuất khẩu các đặc sản địa phương có ứng dụng công nghệ hiện đại hoặc xuất khẩu những sản phẩm thật hiện đại không?
– Sản phẩm xuất khẩu của Ấn Độ không đặc biệt chuyên biệt. Chúng ta biết dân số Ấn Độ quá lớn, vì vậy vấn đề an ninh lương thực và an sinh là quan tâm lớn nhất của họ. Họ chú trọng nhất là sản xuất lúa gạo và sữa. Sản phẩm xuất khẩu lớn nhất là sữa trâu, sữa bò, bông và lúa mì. Với sữa trâu, năng suất của họ tốt, còn năng suất các loại sản phẩm còn lại có tỷ lệ thấp, chưa tới một nửa so với nước dẫn đầu ngành trên thế giới, và có lúc thấp tới mức chỉ có 20%. Ngoài ra, ngoại trừ sản phẩm trà, Ấn Độ cũng không phải là nhà đóng gói thực phẩm đặc biệt xuất sắc.
– Vậy nếu so nông nghiệp Ấn Độ với một số nước Đông Nam Á thì thế nào?
– Ấn Độ rõ ràng đứng sau Malaysia và Thái Lan về năng suất trong nông nghiệp. Tuy nhiên, như tôi nói trên, phần lớn nông nghiệp nhắm vào nuôi sống dân, thay vì chuyên tâm đầu tư công sức để phát triển những giống cây trồng được chọn lựa thực sự. Ấn Độ đứng thứ hai thế giới về sản xuất lúa gạo, và chỉ xếp hạng thứ 38 về năng suất lúa. Vì vậy, theo tôi, tính năng suất ròng thì họ thua xa một số nước Đông Nam Á. Phần lớn là do dân số quá đông, quy mô đất đai hộ gia đình trung bình chỉ là 1,1ha trong năm 2016, và còn bị thu hẹp hơn nữa (6% là số được ghi nhận năm 2018). Ngoài ra, chỉ có khoảng 35% đất đai nông nghiệp Ấn Độ được tưới tiêu đúng nhu cầu, và 60 triệu trong số 180 triệu ha được sử dụng và chăm sóc.
– Còn so với Thái Lan, có sự khác biệt nào trong giáo dục về nông nghiệp với Ấn Độ?
– Thái Lan rất tiến bộ so với Ấn Độ. Đã một thời gian dài, Chính phủ Thái đầu tư cho nông nghiệp từ trang trại cho đến thị trường. Dân số cũng không quá đông, họ lại chọn việc tập trung vào khoa học thực phẩm và giáo dục, chuẩn bị đủ lực lượng chuyên môn với một hệ thống các trường đại học lo việc đào tạo và nghiên cứu. Đại học Kasetsart, Chulalongkorn và Chiang Mai, đào tạo nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học thực phẩm đi vào làm việc ở các doanh nghiệp chế biến thực phẩm và dịch vụ thực phẩm, rất thành công. Điều này đã dẫn đến xuất khẩu nhiều hàng hoá thành phẩm và bán thành phẩm từ Thái Lan. Ấn Độ đã bị ảnh hưởng bởi đường sá còn lạc hậu, cũng như hạn chế về kho lưu trữ chuỗi lạnh, vì vậy, khả năng xử lý về bảo quản, chế biến của họ để xuất khẩu đã bị hạn chế.
Điều này cũng có nghĩa công nghiệp thực phẩm xuất khẩu của Ấn không mạnh như Thái Lan, dù có một số loại cây trồng truyền thống như trà của Ấn Độ, vẫn giữ được thương hiệu và giá trị tin cậy của thị trường, như là lợi thế tự nhiên.
– Còn nếu nói một chút tới Việt Nam?
– Ngành này của Việt Nam tập trung nhân lực đông nhất. Nói chung, tôi cũng thấy có những tiến bộ và cơ hội, nhưng cũng có nhiều khó khăn. Cơ hội là xu hướng tiêu dùng nông sản thực phẩm của thế giới bây giờ hướng đến chất lượng cao và hữu cơ, Việt Nam cũng có không ít nhà sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn này. Tuy nhiên, số lượng nhà sản xuất và sản lượng còn thấp. Hệ thống hậu cần (cầu cảng, kho mát và lạnh các kiểu, đường sá vận chuyển…) còn thiếu, làm sao cạnh tranh về phí hậu cần và về đầu ra của nông sản? Diện tích canh tác cũng còn manh mún, mỗi mảnh ruộng Việt trung bình dưới 1ha. Trong khi ở Mỹ là gần 450ha. Nông nghiệp giờ hơn thua ở đầu tư công nghệ, mà đất đai như thế, khó có nhiều doanh nhân dám đầu tư lớn và lâu dài.
Ấn Độ là một trong ba quốc gia mà Việt Nam chia sẻ quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện”, cùng với Trung Quốc và Nga. Trong bối cảnh Trung Quốc ngày cÀng trở nên quyết liệt tại vùng tranh chấp trên Biển Đông, Việt Nam đang tìm kiếm nhiều đối tác ở khu vực châu Á và bên ngoài, trong đó, đẩy mạnh hợp tác với Ấn Độ. Trong thực tế, Việt Nam cùng với Ấn Độ có thể đóng một vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, hỗ trợ nhau xây dựng năng lực và phát triển kinh doanh nhiều lĩnh vực, như: công nghệ thông tin, trÍ tuệ nhân tạo, an ninh mạng, năng lượng mặt trời, y học cổ truyền, đổi mới nông nghiệp, quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu.
Khánh Thọ (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này