
23:22 - 27/05/2025
Chuyên nghiệp hóa chuỗi giá trị sầu riêng
Trung Quốc dù là thị trường chính chiếm 97,2% kim ngạch xuất khẩu năm 2024, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Năm 2025, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Trung Quốc sụt giảm tới 71,3% về lượng và 74% về kim ngạch, khiến thị phần giảm từ 42,1% (năm 2024) xuống còn 28,2%. Liệu có thể chuyên nghiệp hóa tác nhân tham gia chuỗi giá trị sầu riêng được không?
Đầu tư thỏa đáng
Việc Tổng cục Hải quan Trung Quốc chính thức công nhận thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam là một tín hiệu tích cực. Hiện tại, Việt Nam có 1.396 mã số vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói được phê duyệt. Đây là kết quả của cả một quá trình nỗ lực chủ động từ phía Việt Nam, theo bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn XNK trái cây Chánh Thu, thông tin này sẽ giúp các doanh nghiệp bớt lo về vấn đề xuất khẩu sầu riêng sang thị trường Trung Quốc và là tín hiệu khả quan để kim ngạch xuất khẩu sầu riêng Việt Nam phát triển trong thời gian tới.
“Sầu riêng Việt Nam hiện có chất lượng ngon, sạch, không hề thua kém Thái Lan hay Malaysia, nhờ sự tham gia đồng bộ từ nhiều thực thể trong chuỗi giá trị”, bà Tường Vy khẳng định: Việt Nam có nhiều lợi thế so với Thái Lan về điều kiện tự nhiên cũng như kỹ thuật sản xuất, thu hoạch, xử lý của nông dân và công nhân. Tuy nhiên, để phát huy lợi thế này cần có sự quản lý đồng bộ hơn từ các cấp chính quyền và doanh nghiệp.
Ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang, cho biết theo định hướng của tỉnh, đến năm 2025, diện tích trồng sầu riêng đạt khoảng 15.000ha. Thời gian qua, do giá sầu riêng tăng cao nên người dân Tiền Giang đã đẩy mạnh diện tích trồng sầu riêng cao hơn gần 10.000ha so với kế hoạch. Tiền Giang có 155 mã số vùng trồng với diện tích gần 7.000ha và 66 mã số cơ sở đóng gói. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm khoảng 25% so với diện tích sản xuất sầu riêng thực tế của tỉnh.
Theo ông Nam, công tác quản lý mã số vùng trồng tại địa phương đang gặp nhiều bất cập do thiếu nguồn nhân lực và kinh nghiệm, dẫn đến tình trạng sử dụng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói không trung thực. Từ đó, ông Trần Hoàng Nhật Nam kiến nghị. Thứ nhất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ địa phương thành lập phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn để kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm cho sầu riêng. Thứ hai, các cơ quan chức năng thường xuyên cung cấp thông tin về sản lượng xuất khẩu sầu riêng theo vùng trồng và cơ sở đóng gói, qua đó quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói hiệu quả hơn. Thứ ba , Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm xây dựng và ban hành tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng các loại trái cây tươi xuất khẩu, đặc biệt là sầu riêng.
Ông Mai Xuân Thìn, Tổng giám đốc Công ty Rồng Đỏ, nhận định: Thái Lan đang đi trước Việt Nam trong chuỗi giá trị sầu riêng và thị phần tại Trung Quốc. Sự cố dư lượng vàng O của Thái Lan vào đầu năm 2025 cũng ảnh hưởng đến Việt Nam do Trung Quốc siết chặt kiểm nghiệm.
Để phát triển bền vững, Việt Nam nên hợp tác với Thái Lan để xây dựng thương hiệu khu vực, thâm nhập sâu hơn vào thị trường tỷ dân này, theo ông Thìn. Trung Quốc ưu tiên kiểm soát an toàn thực phẩm, do đó, nếu cả hai nước đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và kim loại nặng, người tiêu dùng Trung Quốc sẽ ủng hộ mạnh mẽ.
Sầu riêng hướng đến phân khúc trung và cao cấp tại Trung Quốc, dư địa còn rất lớn. Ngành sầu riêng Việt Nam có tiềm năng nâng cấp sản xuất và mở rộng vùng trồng đạt chuẩn. Doanh nghiệp Việt Nam vẫn tập trung xuất khẩu sầu riêng tươi, phù hợp thị hiếu phổ biến. Các vùng trồng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên ít cảnh báo về kim loại nặng, nhưng cần kiểm soát rủi ro ngay từ đầu.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: “Nếu xác định sầu riêng là sản phẩm chiến lược quốc gia thì phải có sự đầu tư thỏa đáng”. Theo ông , ngành sầu riêng cần khẩn trương rà soát lại các vùng trồng phù hợp, tránh tình trạng mở rộng tự phát, lạm dụng đất rừng và đất dốc.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu quản lý nghiêm ngặt quy hoạch, không để việc phát triển “nóng” làm tổn hại đến cân bằng sinh thái và an toàn sản xuất.
Kiểm soát chi phí và quy trình chuẩn
Tổng cục Hải quan Trung Quốc yêu cầu khắt khe về kiểm soát an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật đối với sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam, bao gồm việc phải có mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói được phê duyệt, không nhiễm sinh vật gây hại; và đảm bảo an toàn thực phẩm về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, Vàng O, vi sinh vật, chất cấm khác.
“Một trong những vấn đề cấp bách nhất mà chúng tôi đang đối mặt là chi phí kiểm nghiệm lô hàng xuất khẩu”, ông Vũ Phi Hổ, đại diện Công ty Cổ phần Sầu riêng Tây Nguyên (Sarita) nói tại “Hội nghị phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững tại thành phố Buôn Ma Thuột” ngày 24/5/2025 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Đắk Lắk tổ chức.
Theo ông Phi Hổ, chi phí kiểm nghiệm là 400.000 đồng/mẫu năm 2024, nhưng khi mở rộng xuất khẩu với sản lượng lên tới container thì chi phí kiểm nghiệm cộng dồn lên tới 40 triệu đồng/container. Kế hoạch xuất khẩu khoảng 200 container/năm, chi phí kiểm nghiệm có thể lên tới hàng chục tỷ đồng – một gánh nặng lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quy trình quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói còn nhiều bất cập. Tình trạng nhiều cơ sở đóng gói không được Bộ Nông nghiệp và Môi trường cấp phép vẫn ngang nhiên hoạt động tại Đắk Lắk, trong khi phía Trung Quốc chỉ công nhận đơn vị được Tổng cục Hải quan nước này phê duyệt. Sự nhập nhằng thật – giả, ảnh hưởng tới tính minh bạch và công bằng trong hoạt động xuất khẩu.
Theo ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, rõ rằng quá trình sản xuất trong nước vẫn còn thiếu sự chuẩn hóa. Một số trường hợp cho thấy dù không sử dụng hóa chất bị cấm, nhưng sản phẩm vẫn phát hiện tồn dư vượt ngưỡng do không kiểm soát đầy đủ các yếu tố đầu vào. Hiện tượng tồn dư Cadimi trong sản phẩm tại một số khu vực ĐBSCL cũng đáng chú ý, có thể bắt nguồn từ đặc điểm thổ nhưỡng và phân bón.
Để ngành sầu riêng Việt Nam phát triển bền vững và khai thác tối đa tiềm năng trị giá khoảng 200 tỷ USD thị trường toàn cầu năm 2025 và có thể đạt 400 tỷ USD vào năm 2035, ông Võ Quan Huy nhấn mạnh việc xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ từ vùng trồng đến cơ sở đóng gói, bao gồm cả người sản xuất, thương nhân và doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào, giúp kiểm soát tốt từng mắt xích và duy trì chất lượng ổn định.
Đồng thời, quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói được xem là khâu then chốt trong bảo đảm chất lượng xuất khẩu. Hiện cả nước có 1.396 mã vùng trồng sầu riêng được cấp phép xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng con số này vẫn còn quá khiêm tốn so với diện tích trồng khoảng 180.000ha. Việc tăng cường kiểm soát các chủ sở hữu mã vùng và cơ sở đóng gói là cần thiết để nâng cao tính minh bạch, truy xuất nguồn gốc và duy trì uy tín của sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Người trồng manh mún, thiếu bài bản – người mua “góp nhặt mỗi chỗ một ít” để áp vào vườn cùng một mã vùng trồng làm cho việc kiểm soát chất lượng trở nên phức tạp khi mở rộng quy mô. Hệ thống dữ liệu vùng trồng còn thiếu, quy chuẩn sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chưa đồng nhất…là rào cản cho hướng chuyên nghiệp hóa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị sầu riêng.
Ngọc Bích (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này