08:53 - 10/10/2019
Đến lúc ĐBSCL phải biết cách xài nước hiệu quả
Quản lý nước, giữ nguồn nước có mối quan hệ qua lại, không chỉ là giải pháp ở một địa phương nào đó, mà còn là sự liên kết các tiểu vùng.
Tuần cuối tháng 9 qua, PGS.TS Lê Anh Tuấn tiếp tục nói về những thách thức về biến đổi khí hậu đối với vùng hạ lưu sông Mekong tại hội thảo quốc tế: “Climate change Challenges for the Lower Mekong Basin Region: Findings, Crucial Problems and Lessons from Action Plans to Date”, trong khuôn khổ dự án REACT do Chương trình Erasmus+ của EU hợp tác với nhiều trường đại học châu Âu và đại học các nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Theo ông, uỷ hội sông Mekong rất quan trọng trong dàn xếp nguồn nước, cần phải làm tốt vai trò của mình. Hiện nay, vai trò này rất lu mờ. Đối với các tỉnh, đầu tiên phải ngưng ngay việc mở rộng diện tích đê bao; chỗ nào làm lúa không còn hiệu quả thì mở, bỏ đê bao; giữ lại những vùng ngập sâu ở khu vực Đồng Tháp Mười và không thoát lũ nữa. Về lâu dài phải tìm ra giải pháp phục hồi nguồn nước ngầm đang bị khai thác quá mức.
Các nhà khoa học Hà Lan phải mất thời gian tìm hiểu khá lâu để phát hiện đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ còn cao hơn mực nước biển 0,8m (so với mức 2,6m theo công bố hiện tại), đồng nghĩa với nguy cơ 12 triệu dân vùng đồng bằng này sẽ phải di cư trong 50 năm tới. Do đó, nếu chỉ lạc quan với những mẻ lưới, sẽ không thấy được những lo lắng cho tương lai. Nhưng dân cư đồng bằng là vậy, việc gì tới sẽ tới.Vẫn phải làm tận lực để sống từ sông nước.
Năm 2017, nhóm chuyên gia do GS Gerardo van Halsema, Hà Lan, cố vấn cho ngân hàng Thế giới, nghiên cứu các vấn đề về biến đổi khí hậu của vùng ĐBSCL, đưa ra con số so sánh lượng nước đổ về đồng bằng khi có đê và không có đê, cho thấy lượng nước mùa nước nổi, mô hình không có đê khoảng 16,8 tỷ m3 nước đi từ Campuchia về tứ giác Long Xuyên; lượng nước qua sông Tiền khi không có đê là 138 tỷ m3 nước, nhưng khi có đê thì chỉ còn 108 tỷ m3. Việc xây đê, làm lúa ba vụ khiến lượng nước đổ về vùng ĐBSCL ngày càng ít đi, thất thoát nước. Tổng lượng nước mất đi của cả đồng bằng hơn 30 tỷ m3 mỗi năm, đồng nghĩa với việc mất khả năng tưới tiêu cho 1 triệu ha lúa.
Các nhà nghiên cứu tính ra doanh thu của nông dân khi trồng lúa hai vụ là 2.600 USD/ha (tương đương 57 triệu đồng/ha), trừ chi phí (phân bón, thuốc trừ sâu, bơm) 810 USD/ha, tương đương 17,8 triệu đồng/ha, lợi nhuận còn lại là 1.790 USD/ha, tương đương 39,3 triệu đồng/ha. Khi tăng lên ba vụ lúa trong năm năm: doanh thu là 3.900 USD/ha, trừ chi phí (phân bón, thuốc trừ sâu, bơm) 1.605 USD/ha, lợi nhuận thu được là 2.295 USD/ha, tương đương 50 triệu đồng/ha. Và khi canh tác lúa ba vụ suốt 15 năm thì chi phí bỏ ra để sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu lên tới 2.110 USD/ha, trong khi doanh thu là 3.450 USD/ha, lợi nhuận chỉ còn 1.340 USD/ha, tương đương 29 triệu đồng/ha, chưa kể phần tiền xây dựng đê bao để làm lúa ba vụ. Nếu nông dân làm lúa hai vụ thì họ còn có thể hưởng lợi thêm từ nhu nhập khác (nuôi trồng thuỷ sản, rau màu…)
“Tăng năng suất lúa, chạy theo thành tích; nhưng sẽ phải trả giá về môi trường, lượng phù sa giảm, thuỷ sản giảm, dinh dưỡng của đất ngày càng suy kiệt. Đó là sai lầm và thật không dễ đối phó”, GS Gerardo van Halsema cảnh báo mối nguy về suy thoái môi trường, mất đệm nước để cung cấp nước sạch, kiểm soát mặn ở vùng ven biển trong tương lai gần.
Trong khi đó, vùng ĐBSCL đã xây dựng 23.687km đê bao thuỷ lợi. Trong đó, bốn tỉnh thuộc vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười (An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An) có tới 17.128km đê bao, theo thống kê của viện Quy hoạch thuỷ lợi miền Nam (bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn).
Quản lý nước, giữ nguồn nước có mối quan hệ qua lại, không chỉ là giải pháp ở một địa phương nào đó, mà còn là sự liên kết các tiểu vùng. GS Gerardo van Halsema cho rằng, dòng chảy vào mùa khô năm 2015 – 2016 giảm từ 30 – 60%, kiệt nước khiến xâm nhập mặn nhiều làm thay đổi canh tác nuôi trồng thuỷ sản. Sắp tới mặn gia tăng và trầm trọng thêm, nên vấn đề đặt ra là làm gì đảm bảo sinh kế cho người dân?
GS Gerardo van Halsema cảnh báo: 1/ Giải pháp lúa vụ 3 tại một số tỉnh vùng Đồng Tháp Mười của ĐBSCL mang lại tỷ trọng lợi nhuận trên chi phí đầu tư tăng lên trong ngắn hạn, và chắc chắn giảm mạnh về dài hạn, chưa kể các hậu quả và chi phí phục hồi môi trường hết sức nan giải; 2/ Sinh kế không còn bền vững, di cư sẽ tăng cao, thu nhập bình quân của người dân giảm hơn bình quân cả nước so với cách đây 15 năm; 3/ Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các giải pháp sinh kế bền vững, thay vì đầu tư cho các giải pháp hỗ trợ sinh kế ngắn hạn, hay bằng giải pháp công trình; 4/ Xuất hiện một loạt những giải pháp sinh kế khác bền vững hơn, so với giải pháp sinh kế hiện tại.
Khánh An (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này