10:10 - 06/04/2020
Bình ổn như thế nào là đủ với nông dân?
Các bộ ngành đang đề xuất đưa mặt hàng thịt heo vào diện kiểm soát giá, với hy vọng giúp người tiêu dùng mua được sản phẩm có giá ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở nào để kiểm soát giá thịt heo, lại chuyện đáng bàn.
Về ý chí thì không những Nhà nước và người tiêu dùng, mà cả người chăn nuôi cũng muốn giảm giá heo thịt. Bởi khi giá quá cao là biểu hiện của sự bất ổn trong thời gian không xa. Chưa kể trong bối cảnh dịch Covid-19, toàn xã hội đang phải hy sinh nhiều mặt để chống dịch, ổn định cuộc sống thì nếu có giá heo hợp lý là điều tốt đẹp. Tuy nhiên, để có giá heo hợp lý lại là chuyện đáng bàn. Nhà nước cần xác định mặt bằng giá hợp lý và trong trường hợp biến động thì cho phép dao động bao nhiêu, khi vượt ra khỏi biên độ bình ổn thì có biện pháp can thiệp bằng giải pháp kinh tế cho cả hai trường hợp. Ví dụ, giá heo hơi hợp lý nên xác định cho một giai đoạn năm năm liên tục là 50.000 đồng/kg, với biên độ dao động cho phép là 10.000 đồng/kg. Theo đó, khi giá bán giảm dưới 40.000 đồng/kg thì Nhà nước cần bù lỗ 100% cho dân, mà không nên giải cứu bằng biện pháp kêu gọi người tiêu dùng; và khi giá bán vượt quá 60.000 đồng sẽ có quyền thu hồi 100% phần vượt quá mà không cần kêu gọi giảm giá.
Về mặt lý thuyết là vậy, còn xét yếu tố thị trường, việc để giá heo tự điều tiết theo cung cầu là hợp lý nhất. Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại, mở cửa thị trường thịt heo nên ngành chăn nuôi nội địa không thể phát triển ngược xu hướng thế giới. Giá cả thịt heo là “bình thông nhau” giữa heo nội địa và nhập khẩu, nên không thể duy ý chí thiết lập một mặt bằng giá heo nội địa được. Theo các chuyên gia nông nghiệp, tại các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu, thì nhà nước chỉ quan tâm khi giá nông sản dưới giá thành sản xuất và có biện pháp hỗ trợ nông dân. Nhật Bản là quốc gia hỗ trợ 80% phần lỗ vốn đối với một số nông sản. Bởi vì sản xuất nông nghiệp có những đặc thù khác với các ngành khác. Năng suất và sản lượng sản xuất ra bị giới hạn bởi đặc tính sinh học. Một con heo nái một năm sản sinh được khoảng 27 – 28 con heo thịt, heo con nuôi thịt phải mất 24 tuần tuổi mới đạt trọng lượng 100kg để xuất chuồng. Đặc tính sinh học về chu kỳ sinh sản, sinh trưởng và giới hạn tiềm năng di truyền về năng suất của vật nuôi, không cho phép nông dân chủ động tăng giảm sản lượng trong một thời gian ngắn, không như ngành khác có thể giảm sản lượng bằng giảm hay tăng sản lượng 150 – 200% chỉ trong một thời gian ngắn, khi kéo dài thêm dây chuyền sản xuất.
Mặt khác, nông sản tươi sống không cho phép người sản xuất đầu cơ bằng cách gom hàng, bán phá giá hay nâng giá bán trong một thời gian dài, vì heo không thể như thóc gạo có thể chứa trong kho. Điều này có thể khẳng định, nông hộ và cả doanh nghiệp lớn chăn nuôi heo ở Việt Nam hiện nay không phải là đối tượng tự làm giá bán heo trên thị trường, mà do khâu phân phối, nói rõ hơn là các thương buôn. Giá heo từ chuồng trại đến miếng thịt heo người tiêu dùng mua ở Việt Nam, mức chênh lệch giá lên đến 25 – 45%, do phải qua nhiều tầng lớp trung gian.
Để không xảy ra một cuộc khủng hoảng thiếu thịt heo trong thời gian tới như nhiều chuyên gia dự báo, giới kinh doanh thương mại cho rằng, việc giá cả thị trường cứ để thị trường cung – cầu quyết định. Cơ quan quản lý cần đánh giá chính xác tình hình dịch bệnh để có những khuyến cáo kịp thời, giúp người chăn nuôi sớm tái đàn. Ngoài nhập khẩu một lượng thịt (heo, bò, gà) vừa đủ để bù vào số thiếu hụt của thị trường, cần tăng cường khuyến nghị người tiêu dùng tạm thời dùng các loại thực phẩm khác để thay thế thịt heo. Các cơ quan chức năng nên cùng với các doanh nghiệp sản xuất, phân phối, thương buôn hình thành nên chuỗi cung – cầu phù hợp, giảm bớt tầng lớp trung gian, qua đó đưa giá sản phẩm về đúng giá thực và thành phần nào tham gia trong chuỗi này để được hưởng lợi.
Trung bình giá heo hơi cả năm (12 tháng) của năm 2017 là 27.000 đồng/kg và ba tháng đầu năm 2020 giá 80.000 đồng/kg, thì trung bình của 14 tháng năm 2017 và 2020 là 34.600 đồng/kg. Nếu mức giá 80.000 đồng/kg kéo dài trong 12 tháng của năm 2020, thì trung bình của hai năm (2017 và 2020) là 53.500 đồng, mức giá khá hợp lý đối với người chăn nuôi hiện nay.
Bảo Anh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này