
21:52 - 17/12/2024
Tăng cường liên kết, hợp tác, hài hòa lợi ích để phát triển bền vững TP Cần Thơ và các tỉnh vùng ĐBSCL
Thành phố Cần Thơ là “hạt nhân” của vùng ĐBSCL, đang tận dụng nhiều động lực để thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2024 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.
Những yếu tố này không chỉ tạo ra sự bứt phá về kinh tế, Quy hoạch TP. Cần Thơ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là cơ sở, là tiền đề vững chắc để TP. Cần Thơ tiếp tục mở rộng tầm nhìn, tăng tốc bứt phá, thể hiện sự khát khao, mong muốn đưa TP. Cần Thơ phát triển vươn lên tầm cao mới, khẳng định vai trò là đô thị hạt nhân của vùng ĐBSCL, phát triển thích ứng trong tình hình mới, xứng tầm với vị thế, tiềm năng.
Cần Thơ được trở thành thành phố trực thuộc Trung ương từ ngày 01/01/2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội. Ngày 17/02/2005, được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ngày 05/8/2020 tiếp tục được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, đặt ra mục tiêu phát triển Cần Thơ đến năm 2030 trở thành: “Thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng ĐBSCL; là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giáo dục và đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao; là đô thị hạt nhân vùng ĐBSCL; đời sống vật chất và tinh thần của người dân đạt mức cao; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc” và đến năm 2045 trở thành: “thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc sông nước vùng ĐBSCL; thuộc nhóm các thành phố phát triển khá ở Châu Á”.
Diễn đàn Quốc tế SDMD (Sustainable Development of the Mekong Delta) là một sự kiện quốc tế tập trung vào việc thảo luận và tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề phát triển bền vững và quản lý tài nguyên. SDMD có thể đề cập đến việc thúc đẩy các cuộc đối thoại giữa các quốc gia, tổ chức và các bên liên quan về các chủ đề quan trọng như bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế, giảm nghèo, bảo vệ quyền lợi con người và sự hợp tác quốc tế để giải quyết các thách thức toàn cầu. Căn cứ định hướng chiến lược phát triển bền vững vùng ĐBSCL của Đảng và Nhà nước, Diễn đàn Phát triển bền vững ĐBSCL – Tầm nhìn 2045 (gọi tắt là SDMD 2045).
Mekong Connect ra đời năm 2015, từ sáng kiến của Mạng lưới liên kết cấp vùng ABCD Mekong (An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp), sau đó có thêm TP. Hồ Chí Minh. Thành phần Ban Tổ chức Mekong Connect có các tỉnh, thành: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh và Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao cùng sự hỗ trợ của Câu lạc bộ Doanh nghiệp dẫn đầu (LBC). Mekong Connect là Diễn đàn thường niên được bảo trợ và cố vấn của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Diễn đàn được dành cho doanh nhân, doanh nông, nông dân, nhà quản lý, chuyên gia… và các đối tượng có mối quan tâm đặc biệt đến ĐBSCL. Năm 2023, Mekong Connect đánh dấu lần đầu tiên diễn đàn mở rộng phạm vi liên kết phát triển cấp vùng TP. Hồ Chí Minh và 13 tỉnh, thành ĐBSCL, hướng tới trở thành Diễn đàn đối thoại kinh tế công tư thường niên của vùng kinh tế TP. Hồ Chí Minh, trong mối liên kết với khu vực ĐBSCL và các tỉnh Đông Nam bộ, nhằm tạo không gian tiếp cận, thảo luận và kiến nghị các cơ hội, thách thức và giải pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế khu vực. Diễn đàn lần đầu tiên của SDMD 2045 là SDMD 2022 với Chủ đề “Khoa học và Công nghệ – Động lực cho đổi mới và phát triển bền vững”. Định kỳ 2 năm một lần, năm nay là lần thứ 2 TP. Cần Thơ tổ chức Diễn đàn Quốc tế SDMD năm 2024 với Chủ đề “Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa: Động lực cho đổi mới và phát triển bền vững”. Qua thực hiện Diễn đàn Quốc tế SDMD đã gặt hái nhiều kết quả quan trọng. Diễn đàn tích hợp nhiều hoạt động hợp tác năng động trong nước và quốc tế nhằm góp phần phát triển bền vững ĐBSCL và hội nhập thế giới hướng đến tầm nhìn năm 2045.
Xác định liên kết vùng là giải pháp chiến lược, phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng, ứng phó tốt hơn với thách thức về xã hội, môi trường, biến đổi khí hậu. Với mô hình liên kết thông qua Hội đồng điều phối vùng, ĐBSCL có thêm mô hình liên kết ABCD Mekong với mục tiêu “Hợp tác giữa chính quyền địa phương 04 tỉnh, thành phố: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp” liên kết thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp, quảng bá kinh tế của 04 địa phương ABCD. Thường niên tổ chức Diễn đàn, chủ đề đưa ra bàn thảo với những nội dung rất thiết thực. Mục tiêu hành động của ABCD Mekong ngay từ đầu là hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các đơn vị khởi nghiệp, bởi đây là đối tượng doanh nghiệp chiếm đa số ở ABCD nói riêng, ĐBSCL nói chung. Qua liên kết đã phát triển mạnh về du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng; có nhiều công trình hạ tầng mang tính kết nối vùng hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo điều kiện phát triển kinh tế, đẩy mạnh đô thị hóa. Một số cực tăng trưởng mang tính động lực, có sức lan tỏa, làm đòn bẩy cho sự phát triển của vùng liên kết.
Cần Thơ ngày càng khẳng định rõ vai trò, vị trí của một thành phố trực thuộc Trung ương. Đó là thành quả của quá trình cống hiến để phát triển quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn Đảng, Chính quyền và Nhân dân thành phố, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thành phố luôn khát vọng giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện trong quan điểm và phương hướng phát triển của Đảng bộ thành phố, đó là: Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng bộ thành phố có trách nhiệm lãnh đạo sự phát triển toàn diện của thành phố, chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân về các quyết định; phải lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo kết quả sự lãnh đạo của mình. Khơi dậy khát vọng của Nhân dân thành phố, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự cường và truyền thống văn hóa tốt đẹp của TP. Cần Thơ xây dựng và phát triển thành phố nhanh và bền vững.
Thứ hai, quyết tâm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chung để phát triển và sớm đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Nhằm hiện thực hóa chủ trương, mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, với sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn hệ thống chính trị cùng các tầng lớp Nhân dân TP. Cần Thơ, những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đã từng bước khẳng định được vai trò trung tâm của vùng ĐBSCL và đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của đất nước. Cụ thể:
Một là, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều yếu tố thuận lợi và thách thức đan xen đối với duy trì tốc độ tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, TP. Cần Thơ tập trung khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế để phát triển, hướng tới cải thiện chất lượng, nâng cao hiệu quả, tăng trưởng kinh tế duy trì tốc độ tăng ở mức khá. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng theo hướng phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp; tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả; tăng dần tỷ trọng các ngành chế tạo, chế biến, sản phẩm có hàm lượng tri thức, công nghệ, kỹ thuật tiến bộ, có lợi thế cạnh tranh.
Hai là, hệ thống giáo dục được đầu tư tương đối hoàn chỉnh ở các bậc học, cấp học, đặc biệt là giáo dục phổ thông. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng cao, đội ngũ giáo viên được đào tạo đạt chuẩn. Bên cạnh, các bệnh viện nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tiếp tục triển khai áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị; đẩy mạnh xã hội hóa y tế, thu hút đầu tư khu vực tư nhân với kỹ thuật cao và chuyên sâu, phục vụ tốt hơn công tác khám chữa bệnh cho người dân thành phố và các tỉnh trong Vùng. Song song đó, thành phố đã triển khai thực hiện tốt các chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách tôn giáo.
Ba là, thành phố luôn quan tâm công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cụ thể, thành phố tập trung đầu tư hoàn thành các trạm cấp nước sạch, duy trì việc cấp nước liên tục, đủ áp lực, chất lượng nước. Công tác bảo vệ môi trường đạt nhiều kết quả tích cực, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nước và khoáng sản; chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt đánh giá tác động môi trường đã được nâng cao về chiều sâu. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế về quản lý chất lượng không khí, ứng dụng các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Từ đó, năm 2017, Cần Thơ đã được công nhận“Thành phố có tiềm năng bền vững môi trường ASEAN lĩnh vực không khí”; năm 2021 đạt danh hiệu “Thành phố ASEAN bền vững môi trường lần thứ 5” và năm 2024 được trao tặng danh hiệu “Thành phố Xanh quốc gia năm 2023 – 2024”.
Thứ ba, thành phố quán triện thực hiện nghiêm các chủ trương của Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Từ đó, các loại hình dịch vụ, hoạt động, sản phẩm văn hóa được tổ chức phong phú đa dạng, từng bước hình thành thị trường văn hóa sôi động. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ngày càng phát triển sâu rộng, gắn kết được với nhiều phong trào, cuộc vận động, đặc biệt là Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, xây dựng người Cần Thơ “Trí tuệ – Năng động – Nhân ái – Hào hiệp – Thanh lịch”. Phong trào thể dục thể thao quần chúng tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng hoạt động gắn với Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở.
Thứ tư, thành phố đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định giúp cán bộ hiểu rõ về nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cấp ủy đảng tổ chức triển khai nghị quyết, quy định của Thành ủy với chương trình, kế hoạch cụ thể, thiết thực, phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện của từng địa phượng, đơn vị. Qua đó, cán bộ hiểu và hình thành niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, về con đường cách mạng Việt Nam. Nhiều chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Nhân lực khoa học và công nghệ với đội ngũ trí thức, nhà khoa học có trình độ cao ngày càng tăng; các chuyên gia, nhà khoa học đóng góp tích cực trong nghiên cứu, tư vấn phản biện, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của thành phố và vùng ĐBSCL.
Thứ năm, công tác chỉ đạo, triển khai quán triệt, học tập các nghị quyết của Trung ương được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc. Công tác xây dựng Đảng có chuyển biến tích cực và đạt nhiều kết quả quan trọng; nội bộ đoàn kết, thống nhất, nêu cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp; nhận thức của đa số cán bộ, đảng viên đối với công tác xây dựng Đảng được nâng lên, các nguyên tắc, quy định được tuân thủ, dân chủ được mở rộng, các nhân tố tích cực được phát huy, góp phần ngăn chặn những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng.
Thứ sáu, thành phố luôn quan tâm bồi dưỡng về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về năng lực, trí tuệ, nhân cách đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tăng cường chỉ đạo xây dựng và thực hiện hương ướng, quy tắc ứng xử trong cộng đồng, xây dựng các giá trị chuẩn mực văn hóa và con người, tạo môi trường và điều kiện phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, ý thức cá nhân, tuân thủ pháp luật, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc; đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Đầu tư xây dựng các di tích lịch sử văn hóa để giáo dục, lưu truyền những giá trị lịch sử của dân tộc và tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng hào dùng của vùng đất và con người Cần Thơ.
Thứ bảy, các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật của thành phố khi được ban hành ngoài việc đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, còn phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương, tất cả đều vì lợi ích của người dân, doanh nghiệp và sự phát triển của địa phương và đất nước. Trong quá trình xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều xin ý kiến đóng góp của Nhân dân, doanh nghiệp, do vậy tạo được sự đồng thuận và ủng hộ cao từ Nhân dân. Trong triển khai, thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương luôn trú trọng đảm bảo tính công khai, minh bạch, giải trình.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đáng được ghi nhận nêu trên, Cần Thơ vẫn còn một số tồn tại, khó khăn như sau:
Một là, biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng nhanh, khốc liệt và khó lường; quá trình đô thị hóa tiếp tục diễn ra nhanh tạo sức ép lớn về nhu cầu phát triển hạ tầng và xử lý ô nhiễm môi trường; thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra cũng đang đặt ra nhiều khó khăn cho TP. Cần Thơ với vai trò trung tâm của vùng ĐBSCL.
Hai là, mặc dù hành lang pháp lý cho liên kết vùng ở ĐBSCL ngày càng được hoàn thiện nhưng tính pháp lý chưa cao. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong những năm qua ban hành một số quy định để các cấp, các ngành, địa phương thực hiện hoạt động phối hợp liên kết vùng nhưng quá trình triển khai các quy định còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó, phần nào đã ảnh hưởng đến vai trò, động lực và sức lan tỏa của Cần Thơ trong Vùng.
Ba là, tư duy về liên kết vùng của các cấp chính quyền địa phương trong Vùng tuy đã nâng lên nhưng vẫn còn mờ nhạt, chưa theo kịp nhu cầu đổi mới mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối nội Vùng cũng như kết nối thành phố với các trung tâm kinh tế ngoài Vùng chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ và hiện đại.
Bốn là, mặc dù thế mạnh kinh tế của Cần Thơ nói riêng và ĐBSCL nói chung là ngành nông nghiệp, nhưng chuỗi giá trị các ngành hàng và sản phẩm từ lúa gạo, thủy sản và trái cây hiện nay vẫn còn tồn tại các đặc điểm thiếu bền vững. Cụ thể, liên kết phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp đã bước đầu hình thành nhưng mới dừng lại ở khâu sản xuất và sơ chế thô, chưa tạo được những sản phẩm có khả năng tiếp cận trực tiếp vào chuỗi giá trị toàn cầu. Giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp còn thấp.
Năm là, các doanh nghiệp ở Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL thường có quy mô vừa và nhỏ, việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất – kinh doanh hay sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế. Liên kết giữa các doanh nghiệp nhìn chung vẫn yếu, hầu hết các doanh nghiệp trong Vùng mới tham gia vào công đoạn sơ chế nên nhu cầu liên kết còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp chỉ tham gia một khâu rất ngắn trong chuỗi cung ứng nên giá trị gia tăng thấp và tính liên kết không cao.
Sáu là, mặc dù Trung ương đã quan tâm đầu tư cho vùng ĐBSCL, nhưng hiện nay hạ tầng logistics, hạ tầng giao thông vẫn là điểm nghẽn ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư vào TP. Cần Thơ nói riêng, các tỉnh vùng ĐBSCL nói chung.
Bảy là, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL tuy được nâng lên nhưng chưa đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực; thiếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học, chuyên gia giỏi trên một số lĩnh vực như quy hoạch, quản lý đô thị, môi trường, pháp luât, thương mại, đầu tư quốc tế; trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế.
Để phát huy những thành quả đạt được và khắc phục những tồn tại, khó khăn, đặc biệt để Cần Thơ và các tỉnh vùng ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững trong “Kỷ nguyên phát triển mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, TP. Cần Thơ quan tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy và tầm nhìn về phát triển thành phố; triển khai hiệu quả các đề án, chương trình, kế hoạch của thành phố để thực hiện các khâu đột phá, các nhiệm vụ trọng tâm theo Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 78/NĐ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phối hợp xây dựng lộ trình tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của quy hoạch đã đề ra đối với Vùng nói chung và từng tỉnh, thành trong Vùng nói riêng.
Thứ hai, thành phố tăng cường cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, khai thác hiệu quả quỹ đất để huy động nguồn vốn, tạo điều kiện để các nhà đầu tư triển khai các dự án đầu tư trọng điểm của thành phố như dự án Trung tâm Thương mại Aeonmall, Khu công nghiệp VSIP Vĩnh Thạnh, dự án Trung tâm nhiệt điện Ô Môn cũng như kêu gọi các dự án trong Danh mục dự án thu hút đầu tư vào TP. Cần Thơ giai đoạn 2023 – 2025, định hướng đến năm 2030. Tận dụng các nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á và các quỹ của tập đoàn tài chính phát triển.
Thứ ba, hoàn thành và triển khai Quy hoạch TP. Cần Thơ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng tích hợp, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng ĐBSCL với vai trò trung tâm vùng. Quy hoạch đô thị theo hướng đô thị sông nước sinh thái, văn minh và hiện đại; đô thị hạt nhân của vùng ĐBSCL, liên kết, kết nối với chuỗi đô thị vệ tinh trong vùng ĐBSCL; mở rộng không gian và chức năng đô thị, hình thành khu đô thị mới khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, tạo động lực phát triển mới cho giai đoạn tiếp theo.
Thứ tư, tăng cường phối hợp rà soát, nghiên cứu, ban hành các chính sách, giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của từng tỉnh, thành và toàn Vùng để tăng cường thu hút đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Phối hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc triển khai các dự án đầu tư, viện trợ phát triển trên địa bàn từng tỉnh, thành trong Vùng.
Thứ năm, tăng cường phối hợp giữa các tỉnh, thành trong Vùng với nhau và với các tỉnh, thành ngoài Vùng cũng như với ban, bộ ngành Trung ương trong việc trao đổi thông tin, tình hình liên quan đến hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước; thường xuyên cập nhật tình hình hợp tác với các đối tác, đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc để phối hợp giải quyết. Tích cực, chủ động nghiên cứu khả năng mở rộng hợp tác với các đối tác khác, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia và địa phương các nước đối tác mà các địa phương trong Vùng chưa thiết lập quan hệ.
Thứ sáu, phối hợp, hỗ trợ doanh nghiệp trong Vùng nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy liên kết theo chuỗi cung ứng và mạng sản xuất, như: (1) Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực đất đai, mặt bằng sản xuất, xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp có tính liên kết cao; (2) Hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn vay tín dụng; (3) Hỗ trợ tiếp cận nguồn lực khoa học – công nghệ; (4) Hỗ trợ tiếp cận nguồn nhân lực có trình độ cao; (5) Hỗ trợ tiếp cận thông tin, thị trường.
Thứ bảy, tăng cường phối hợp trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Rà soát các cơ sở đào tạo nghề, đào tạo đại học và sau đại học trong Vùng, nâng cao chất lượng giảng viên, cập nhật các Chương trình đào tạo tiên tiến nhằm cung ứng nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn của doanh nghiệp cũng như phát triển kinh tế – xã hội của Vùng nói chung.
Thứ tám, tăng cường phối hợp trong bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cụ thể, phối hợp tuyên truyền, triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường; đưa nội dung bảo vệ môi trường vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; quan tâm, thực hiện tốt công tác thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các công trình, dự án đầu tư; chú trọng quản lý, sử dụng, khai thác tài nguyên hợp lý, có hiệu quả, đúng pháp luật; huy động các nguồn lực để đầu tư các công trình, dự án nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ chín, tăng cường hợp tác trong xây dựng các chương trình, kế hoạch, biện pháp bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh trong Vùng. Chủ động phối hợp các bộ, ngành Trung ương và địa phương để triển khai có hiệu quả các đề án lớn của Chính phủ nhằm kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế, vừa phát triển kinh tế vừa góp phần bảo vệ quốc phòng, an ninh trong Vùng.
Tóm lại, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên kết vùng giúp tăng cường lợi thế cạnh tranh, tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống Nhân dân; đẩy mạnh liên kết vùng, tăng cường hợp tác để TP. Cần Thơ và vùng ĐBSCL bứt phá phát triển bền vững và thịnh vượng.
Trần Việt Trường*
———
(*) Nguồn: Kỷ yếu Mekong Connect 2024.
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này