10:25 - 05/03/2020
Ngày nước Thế giới 2020 và trách nhiệm chia sẻ nguồn nước
Không thể tách rời vấn đề nước và biến đổi khí hậu toàn cầu. Đó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi khí hậu” cho Ngày nước Thế giới 22/3/2020 năm nay.
Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai, điều này đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.
Một ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4.800 km chảy qua sáu quốc gia (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam) giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Campuchia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích lũy nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Campuchia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang – Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu khác.
Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thủy lợi không hiệu quả. Do đó từ nay, mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thủy học qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân.
Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu, ưu tiên tr ợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, phó viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường đại học Cần Thơ):
Tháng 3/2016, Chính phủ Việt Nam cũng đề nghị Trung Quốc tăng xả nước đập thuỷ điện Cảnh Hồng từ mức 1.100 m3/s lên mức 2.190m3/s, để cứu hạn cho vùng hạ lưu. Nhiều nông dân khi đó nghe tin này đã vội sạ lúa tiếp để bù cho diện tích lúa bị chết do hạn mặn với hy vọng nước về nhiều hơn. Tuy nhiên, thực tế không như mong đợi vì nước từ thuỷ điện Cảnh Hồng đến ĐBSCL gần như không đáng kể. Trái lại, việc này làm nông dân thiệt hại thêm, trong khi Trung Quốc lấy chuyện này để tuyên truyền thiện chí chia sẻ nguồn nước trên lưu vực sông Mekong.
Năm nay, chính Trung Quốc chủ động tuyên bố tăng mức xả nước đập Cảnh Hồng từ 850 m3/s lên 1.000 m3/s “nhằm giải quyết phần nào nhu cầu cấp bách của các quốc gia khác thuộc lưu vực sông Mekong”. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm bài học từ năm 2016, nông dân đã không tin tưởng từ thông báo này nên không có chuyện người dân tăng diện tích gieo sạ.
Ai cũng biết, nếu Thái Lan, Lào, Campuchia không lấy nước, ít gì cũng phải mất 3 tuần sau nước mới tới được đồng bằng sông Cửu Long, lúc đó lúa đang thiếu nước ở đây cũng
chết hết rồi. H.L ghiXây đập Luang Prabang, Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam tham gia 38%
PGS.TS Lê Anh Tuấn, phó viện trưởng viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ): Nếu Trung Quốc muốn đầu tư vào thủy điện này thì Việt Nam sẽ không có cửa. Chẳng qua, đây là một cái “bẫy”, khi Việt Nam nhảy vào dự án thủy điện Luang Prabang thì sau này phải công nhận các đập ở thượng nguồn, không thể phê phán Trung Quốc, Campuchia hay Lào được nữa.
Trước đó, trao đổi với PV Tiền Phong ngày 13/10/2019, TS Lê Anh Tuấn cho biết, sự tác động của các đập thủy điện ở sông Mekong đối với vùng ĐBSCL gần như tiêu cực hoàn toàn; làm thay đổi lượng nước, phù sa, nguồn lợi thủy sản… “Từ chính quyền, cơ quan và cộng đồng người dân đều phản đối chuyện đó. Ngay cả Chính phủ Việt Nam cũng đã nhiều lần yêu cầu Lào ngừng xây các đập thủy điện. Đập thủy điện Luang Prabang nếu được xây sẽ khiến rủi ro của vùng ĐBSCL ngày càng gia tăng, đây là điều chắc chắn”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Trong dự án thủy điện Luang Prabang, Tổng công ty Điện lực dầu khí Việt Nam tham gia 38%, phía Lào góp 25% và các đối tác khác góp 37%. Theo ông Tuấn, việc Việt Nam có doanh nghiệp tham gia đầu tư vào đây càng tạo thêm bất lợi cho chính mình, không khác gì “lấy đá ghè chân mình”. Lợi ích từ việc đầu tư đó không bù được cho những thiệt hại khác. Mặt khác, đập này phía trên bị các đập của Trung Quốc khống chế, phía dưới lại có hàng loạt đập khác nữa nên càng làm cho tình hình thêm nghiêm trọng.
“Sự đầu tư đó là không nên, tôi trao đổi với các nhà khoa học thì hầu hết họ đều phản đối, việc này đã đẩy ĐBSCL vào thế bất lợi”, TS Tuấn cho hay.
Ngô Thế Vinh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này