
15:26 - 27/06/2025
Nghịch lý dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng ở ĐBSCL
ĐBSCL, vựa lúa lớn nhất Việt Nam, một trong những trung tâm xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, đang đứng trước thách thức không chỉ về an ninh lương thực mà cả những thách thức về dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng.
Nghịch lý dinh dưỡng ở vựa lúa
ĐBSCL có tỷ lệ thừa cân, béo phì trên 10,2%, đứng thứ hai cả nước. Mức tiêu thụ gạo bình quân đầu người cao hơn mức trung bình toàn quốc, nhưng lượng rau quả lại thấp hơn khuyến nghị của WHO (400g/ngày), chỉ khoảng 203g rau và 115g trái cây mỗi người mỗi ngày.
Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra nghịch lý đáng báo động đang hiện hữu tại vùng ĐBSCL, trong khi lúa gạo dồi dào, tỷ lệ béo phì và tiểu đường có xu hướng gia tăng nhanh. Đáng chú ý, tỷ lệ béo phì ở thanh niên ĐBSCL tăng nhanh nhất so với các vùng khác trên toàn quốc, đi kèm với tỷ lệ người mắc bệnh tiểu đường cao hơn. PGS TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cho biết tại hội thảo “Giải pháp chuyển đổi hệ sinh thái ngành hàng lúa gạo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long: Nghiên cứu, phát triển và kinh doanh” do Đại học Cần Thơ phối hợp với Viện Quản lý Nước Thế giới (IWMI) tổ chức từ ngày 25-26/6/2025.
“Có quá nhiều thách thức đối với ĐBSCL, thuật ngữ “thực phẩm” ở ĐBSCL cần có những phản hồi chính sách cụ thể, cần chuyển đổi hệ sinh thái lúa gạo vì sức khỏe, môi trường và sinh kế bền vững “- TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL cho rằng, Chính phủ Việt Nam đã chuyển hướng sang “Chiến lược Tăng trưởng Xanh”, ưu tiên chất lượng gạo, an toàn thực phẩm và định hướng thị trường. Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp” đến năm 2030 được coi là bước ngoặt để giảm khí nhà kính, tăng lợi nhuận và nâng cao thương hiệu lúa gạo Việt Nam.
Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái trên quy mô lớn, bền vững và toàn diện cần có sự chuyển dịch căn bản từ nông nghiệp hóa học và kinh doanh đơn thuần sang sinh kế cộng đồng và đa giá trị. Đồng thời, cần có sự đổi mới và chú ý yếu tố tài chính. Các mô hình hợp tác xã cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu đầu tư và chính sách hỗ trợ. Việc chuyển từ lao động thủ công sang cơ giới hóa và số hóa là cần thiết.
Mô hình kinh doanh toàn diện và hợp tác nhiều bên
Bà Viviane Filippi, đại diện Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), chỉ ra ba thách thức lớn của ngành lúa gạo ĐBSCL: 1. Biến đổi khí hậu, thoái hóa đất và thu nhập nông dân thấp; 2. Phát thải khí mê-tan cao, lạm dụng phân bón hóa học, cùng hạn hán, lũ lụt và xâm nhập mặn đang đe dọa sản xuất; 3. Quy mô trang trại nhỏ (dưới 1 ha) và chuỗi cung ứng phân mảnh càng làm giảm khả năng cạnh tranh và kiểm soát chất lượng. Dù có những thành tựu như mô hình “1 phải – 5 giảm”, SRP, hay đề án 1 triệu há lúa chất lượng cao, việc mở rộng quy mô vẫn gặp khó khăn. Thách thức lớn nhất hiện nay là việc mở rộng các mô hình nông nghiệp sinh thái ra diện rộng do nhận thức và tư duy chuyển đổi của nông dân chưa đồng đều, hệ thống thủy lợi nội đồng chưa đồng bộ, và sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi giá trị còn hạn chế (chỉ 40% diện tích lúa được thu mua trực tiếp) công với các lỗ hổng về giám sát, đánh giá, ứng dụng công nghệ và liên kết chuỗi giá trị.
Ứng dụng Farmore được coi là thí điểm đầy hứa hẹn, hướng tới người dùng và thúc đẩy tương tác giữa các tác nhân. Mặc dù 74% nông dân sẵn sàng áp dụng các ứng dụng kỹ thuật số, nhưng tỷ lệ chấp nhận thực tế chỉ là 4%, TS Đặng Kiều Nhân cho biết.
Để nâng cao tính hiệu quả trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi, TS Huỳnh Kim Định, Phó Chánh Văn phòng Điều phối nông nghiệp nông thôn vùng ĐBSCL đề xuất 5 định hướng chính, bao gồm: Thứ nhất, tái cấu trúc chuỗi giá trị: Hướng tới “gạo chất lượng – xanh – thông minh”, ưu tiên giống chất lượng cao, xây dựng vùng nguyên liệu lớn áp dụng công nghệ số và truy xuất nguồn gốc. Thứ hai, chuyển đổi sang nông nghiệp tuần hoàn – phát thải thấp: Nhân rộng đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ứng dụng mô hình lúa hữu cơ, lúa luân canh hoặc xen canh, tận dụng phụ phẩm. Thứ ba, phát triển thị trường và nâng cao thương hiệu gạo Việt: Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tập trung vào gạo đặc sản, gạo chức năng, gạo hữu cơ để tăng giá trị, xây dựng hệ sinh thái thương hiệu quốc gia. Thứ tư, thúc đẩy liên kết 4 nhà: Doanh nghiệp làm đầu tàu, nâng cao năng lực hợp tác xã, Nhà nước hỗ trợ chính sách và đầu tư hạ tầng. Cuối cùng, chuyển đổi số ngành lúa gạo: Ứng dụng AI, IoT, cảm biến, blockchain vào canh tác, truy xuất và thương mại điện tử; xây dựng bản đồ số vùng trồng và hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm.
“Trước tiên cần xem xét việc xây dựng cơ sở dữ liệu và nền tảng, làm sao cho người mua thấy được giá trị sản phẩm mà họ mua thật xứng đáng như vậy”, bà Viviane Filippi cho rằng việc xây dựng cơ sở dữ liệu, nền tảng thông tin, nâng cao năng lực cho nông dân cùng với việc phát triển các mô hình hợp tác xã để đáp ứng nhu cầu đầu tư và chính sách hỗ trợ… sẽ là những bước đi căn cơ cho sự chuyển đổi này.
Canh tác nông nghiệp sinh thái, chứng nhận bền vững, ứng dụng công nghệ. Đặc biệt, sử dụng công cụ số như ứng dụng di động, GIS, cảm biến để hỗ trợ nông dân ra quyết định theo thời gian thực. AI và giám sát vệ tinh sẽ cho phép theo dõi phát thải CH4 và canh tác từ xa với chi phí thấp, đồng thời tạo ra tín chỉ carbon có thể bán được. Kết nối nông hộ nhỏ với chuỗi cung ứng công bằng để đảm bảo lợi nhuận và gạo an toàn cho người tiêu dùng. Xây dựng liên minh toàn diện giữa chính phủ, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và nông dân để cùng hợp tác xây dựng chính sách và thúc đẩy đổi mới – Bà Viviane Filippi nhấn mạnh : Cuối cùng, một tầm nhìn toàn diện về chuyển đổi lúa gạo ĐBSCL phải bao gồm các giải pháp bền vững : cơ sở hạ tầng và hệ sinh thái kỹ thuật số, hệ thống kinh doanh toàn diện và các công cụ thông minh, mô hình vốn thông minh.
https://www.youtube.com/@BSAChannel/videos
Ngọc Bích (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này