09:40 - 06/07/2020
Nông sản Việt, nhìn từ góc độ thương mại hoá
Việt Nam (VN) đã gần như đi qua mùa dịch bệnh Covid-19. Dù hết sức thận trọng, chúng ta cũng nhìn nhận hiện nay VN đang có một lợi thế là có thể sắp xếp, tổ chức việc tiêu thụ, xuất khẩu nông sản, trong khi các nước đối tác cũng là đối thủ còn lao đao với dịch bệnh.
Sau mùa dịch, chúng ta hiểu rằng sự an toàn, tốt cho sức khoẻ đang là nhu cầu lớn nhất của người tiêu dùng thế giới. Vì vậy, vấn đề chăm lo cho chất lượng, giảm thiểu sử dụng hoá chất, xây dựng để đạt kịp thời các tiêu chuẩn quốc tế, chính là yêu cầu phải cập nhật để nông dân và các nhà sản xuất kinh doanh có thể khởi động lại kinh doanh một cách vững chãi.
Nói về những mặt yếu của nông sản Việt, thì chúng ta thường nghe nói đến: chủ yếu xuất thô, công nghệ chế biến, bảo quản… còn lạc hậu; lạm dụng hoá chất (phân bón, thuốc sâu); chưa có tiêu chuẩn, không đảm bảo chất lượng đồng đều, gặp khó khăn lớn trước các rào cản kỹ thuật; phân phối (cả trong nước và quốc tế) còn yếu. Mạng phân phối toàn cầu, trình độ thương mại quốc tế còn kém. Chưa thâm nhập và đứng vững được trong các chuỗi giá trị thế giới.
Theo dõi việc kinh doanh nông sản Việt trên các thị trường quốc tế lâu nay, tôi thấy có mấy vấn đề đáng quan tâm:
– Nông sản VN bị định kiến của nhà mua hàng quốc tế về dư lượng. Điều này gắn liền với thực tế là nông sản VN đến nay chỉ có chừng 5% đạt tiêu chuẩn quốc tế;
– Nông sản VN không có thương hiệu, không thâm nhập được chuỗi thương mại toàn cầu. Hiện nay do nhiều tình hình mới thuận lợi hơn, nên dần dần khắc phục điểm yếu này, nhưng vẫn chậm;
– Nhìn chung, sự thiếu thốn thông tin thị trường, và khả năng xử lý thông tin này từ cơ quan quản lý nhà nước đến doanh nghiệp, nông dân đều bị yếu.
Thiết yếu nhất là thông tin – luôn được cập nhật – về thị trường
Thị trường đang thay đổi nhanh. Cập nhật thông tin và kiến thức thị trường cho nông dân và doanh nghiệp là chuyện cần làm thật thiết thực.
Thay đổi lớn nhất với thị trường xuất khẩu nông sản VN vẫn đến từ thị trường Trung Quốc (TQ). Mặc định của nhiều nhà sản xuất, kinh doanh nông sản về thị trường TQ đã lạc hậu, mà chưa cập nhật kịp thời. Ví dụ: luôn cho TQ là thị trường là dễ tính, chất lượng nào cũng tiêu thụ được. Nhưng thực tế, cánh cửa tiểu ngạch đang hẹp dần và không bao giờ phục hồi như trước được nữa. Với thị trường TQ, bây giờ phải có tiêu chuẩn, phải truy xuất được nguồn gốc, phải có hai thứ mã: mã vùng trồng và mã xưởng đóng gói.
Về mã vùng trồng, hiện nay cục Trồng trọt chưa xử lý nhất quán được, mà giao về cho địa phương; và từng tỉnh lại có những cách xử lý khác nhau, trong khi phía người mua (TQ) lại thống nhất quản lý. Một thực tế nữa, sau nhiều năm len lỏi vào tận những vùng nguyên liệu xa xôi của VN, tự đi mua hàng tại vườn hay thuê thương lái VN mua theo yêu cầu của họ, thì TQ đã có bản đồ vùng trồng nông sản từng tỉnh, chi tiết hơn các tỉnh của VN.
Một điều không hiểu phía TQ nữa là họ cũng lấy giống từ VN về (giống cây, trái, cá…) và tự trồng thành nhiều vùng rộng lớn. Như thanh long họ đã trồng tới 70.000ha, mà nông dân VN còn thi nhau trồng khắp 62/63 tỉnh, thành (trong khi quy hoạch của nhà nước chỉ có ba tỉnh: Bình Thuận, Tiền Giang, Long An). Một điều chúng ta ít biết về họ nữa, là hải quan TQ rất rành rẽ về các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản VN, và họ lại có đối sách ảnh hưởng chủ trương chính trị…
Một mảng thông tin thị trường cần cập nhật nữa, là các hiệp định thương mại tự do mới. Gần đây nhất là hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu. Bộ Kế hoạch và đầu tư từng dự đoán năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của VN sang EU sẽ đạt 20% (nếu không gặp dịch Covid-19). Và cũng ít doanh nghiệp hiểu sâu về lợi thế của ta với thị trường này, như: không chỉ xuất, đây còn là thị trường nhập rất tốt các thiết bị máy móc công nghệ cao, với các chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật tốt. Thậm chí, ta có những lợi thế sẵn cũng chưa màng phát huy, như là các chỉ dẫn địa lý về hồ tiêu, về nước mắm truyền thống… được châu Âu bảo hộ đã lâu.
Định kiến “dư lượng” và vấn đề tiêu chuẩn
Về tiêu chuẩn, một tổ chức tiêu chuẩn toàn cầu đặt ở Đức, sở hữu một tiêu chuẩn phổ quát, tạo thuận lợi tốt cho nông sản Việt đi vào thị trường thế giới, lại có hợp tác tốt với VN và đạt được sự hỗ trợ tốt, là giúp nông sản VN xây dựng một tiêu chuẩn bước đệm với chi phí và thời gian đạt chứng nhận chỉ bằng 1/3 của GlobalG.A.P. Đó là LocalG.A.P đang được hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao bắt đầu thực hiện ở VN. Tiêu chuẩn này hy vọng sẽ mở ra triển vọng mới cho nông sản VN, chỉ với VietG.A.P là có thể tiếp cận LocalG.A.P để đi ra thị trường thế giới nhanh chóng và ổn định.
Vấn đề lạm dụng hoá chất là một định kiến quan trọng đối với nông sản VN, cho tới nay còn khó tẩy xoá là dư lượng thuốc trừ sâu. Nông dân tận dụng thuốc để trái cây tăng trưởng nhanh, bảo quản được dài, “nhan sắc” sản phẩm ngon lành, thì bán được, nhưng chỉ một đôi lần là bị từ chối và sau đó, cả các nhà sản xuất khác đều vạ lây, tiếng xấu (nhiều dư lượng) ảnh hưởng đến nhiều người, làm tốt cũng bị hàm oan.
Tìm giá trị gia tăng cho nông sản
Vấn đề bảo quản, chế biến đã được nói từ rất lâu, nhưng việc thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn. Khi gặp nông dân, chúng tôi thấy họ thường thắc mắc, sao ta cứ mãi bám thị trường TQ mà không tăng lượng xuất qua châu Âu, Mỹ. Gặp một số nông dân, tôi nói, xuất qua Âu, Mỹ ai cũng muốn nhưng thị trường Âu, Mỹ có nhiều đòi hỏi: tiêu chuẩn, thương hiệu, chi phí vận chuyển, năng lực bảo quản. Chúng ta phải xem từng loại sản phẩm cho từng thị trường rồi tháo gỡ từng chút một. Đi kèm vẫn là chính sách thực sự khuyến khích nông dân làm tiêu chuẩn, đảm bảo an toàn và chất lượng. Còn chính sách xây kho, xây nhà máy chế biến… nhà nước có vai trò chính, kiên định thực hiện chính sách vì lợi ích lâu dài cho nền kinh tế.
Không thể kinh doanh nông sản với những hộ nông dân riêng lẻ, những hình thức sản xuất chế biến nhỏ tại nhà, mà phải dứt khoát đi vào hình thức hợp tác lớn, sản xuất lớn, công nghệ cao.
Nhà nước từng đưa ra nhiều khuyến khích đầu tư cho chất lượng cao, công nghệ cao, nhưng chỉ nói trên giấy, không cụ thể hoá thành chính sách và thường xuyên giám sát việc thực thi chính sách, để cho rất nhiều tỉnh, thành cứ khăng khăng lấy đất nông nghiệp chuyển thành khu dân cư, kinh doanh địa ốc, phân lô bán nền; dù quy hoạch rành rành đất dành cho nông nghiệp, vùng nguyên liệu nông nghiệp… Thực trạng này có khác gì chúng ta đang dối gạt nhà đầu tư, và hậu quả là vừa lòng địa phương (thu tiền lớn), còn chuyện đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao thì chờ… kiếp sau.
Và như thế, dù nói rất hay về những điều to tát mà nông nghiệp vẫn cứ mãi sống kiếp gia công, làm hàng “ăn tươi nuốt sống, đổ đống chờ giải cứu”.
Hợp tác sản xuất lớn
Chủ trương xây dựng hàng chục ngàn hợp tác xã – HTX kiểu mới đang hồi phục dần, qua nỗ lực của một số địa phương và tập đoàn nông nghiệp như Lộc Trời, cũng như qua chủ trương xây dựng nông thôn mới. Đây là hình thức HTX tiến bộ làm kinh tế, tức là kinh doanh đa ngành nghề, đa chức năng, chứ không chỉ tập trung duy nhất cho sản xuất, rồi sản phẩm đầu ra không phù hợp thị trường và cũng không biết tiêu thụ ở đâu.
Nhà nước đưa chỉ tiêu tới 15.000 HTX, trong khi đó, có nhiều HTX chỉ đánh trống ghi tên cho có số để đếm, chứ thực sự đã bị… “tai biến”, tức là không còn là HTX nữa. Vấn đề xây dựng HTX kiểu mới là chuyện gian khổ vô cùng, và làm sao có chính sách để người nông dân tin, thì luật phải bước ra khỏi mấy tờ A4 mà đi vào cuộc sống. Và dàn cán bộ đi giúp dân làm HTX đâu? Giờ đi về nông thôn, nông dân nói nhỏ: mấy ông khuyến nông thường đi bán thuốc sâu mà dân đâu dám cãi (tức là bán vật tư nông nghiệp và cán bộ bán thì dân cũng nể, không dám không mua).
Kim Hạnh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này