09:56 - 04/03/2020
Nguồn lực nào cho kho lạnh?
Thị trường Trung Quốc đang tê liệt, gần như các hợp đồng đã ký không xuất đi được. Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Vina T&T Group, cho biết: Ở biên giới Việt – Trung dù có thông tin Trung Quốc mở cửa lại nhưng phải chờ đợi, cách ly.
Cách làm của ông Tùng là đưa trái tươi vào chuỗi cửa hàng, giảm giá tương đương với giá thành để duy trì lượng khách và kích cầu. Lượng lớn hơn được trữ lạnh.
Giải pháp trữ lạnh
“Chúng tôi đã vận hành kho mới vào tháng 9/2019, từ mùng 6 tết tới nay, mỗi ngày mua 30 tấn sầu riêng, tương đương 2 container, tới nay đã trữ trên 200 tấn sầu riêng”, ông Tùng cho biết.
Hiện nay, hàng nông sản ùn ứ rất lớn, phải thuê kho, container lạnh mới trữ hết. Giá thuê container lạnh 8 – 9 triệu đồng/tháng, tiền điện mỗi ngày 1 triệu (tăng gấp đôi so với trước đây) và phải chờ tới 4 – 5 tháng mới xuất đi được. Chi phí tăng cao, nhưng công ty không thể đẩy chi phí này cho đối tác, do đó, ông Tùng kiến nghị các hiệp hội chung sức, trong đó có vai trò của hiệp hội logistics vận động thành viên không nên lợi dụng lúc này đẩy giá thuê kho lạnh lên, mà cân đối cung – cầu, san sẻ kho, container lạnh với nhau… Khó khăn hiện thời của ông Tùng là hệ thống kho lạnh nội bộ đã quá tải, nhưng nếu đầu tư kho lạnh mới thì khi hết dịch lại dư thừa.
Tương tự, ông Đàm Văn Hưng, công ty Hương Miền Tây, nói: “Hiện giờ, tôi chỉ mua hàng trong thành viên hợp tác xã, tổ hợp tác. Cũng muốn hỗ trợ bà con, nhưng phải bỏ bớt sản phẩm không ký hợp đồng, vì bưởi da xanh chỉ đi chính ngạch ở một số thị trường nhất định, truy xuất nguồn gốc đàng hoàng”.
Mỗi ngày công ty Hương Miền Tây mua 60 tấn bưởi da xanh, chỉ tiêu thụ từ 10 – 20 tấn, còn lại phải trữ lại. Hiện, kho lạnh 1.000 tấn của công ty không còn chỗ chứa, ông Hưng khuyên nông dân nên bình tĩnh, đừng thấy giá xuống thấp lại nôn nóng hái trái, vì hái càng nhiều thì càng bị động hơn nữa”.
“Giải cứu bằng cách chế biến, cấp đông, kể cả đông lạnh múi, đông lạnh trái đi thị trường khác, thì mới giúp nông dân bán hàng với giá tốt hơn được”, bà Nguyễn Thị Hồng Thu, công ty Chánh Thu, chia sẻ.
“Qua rủi ro này, mọi người chắc nhìn thấy cái lợi, cái hại của việc thiếu liên kết, làm ăn theo kiểu không có hợp đồng chặt chẽ, qua trung gian hay các doanh nghiệp không có pháp nhân rõ ràng, lời khuyên với nông dân lúc này là nên dưỡng cây, đừng cho ra trái tiếp”, ông Tùng nói.
Vừa thiếu, vừa yếu
Dù có dịch hay không thì nền kinh tế cũng phải tính đến không gian lưu trữ hàng hoá, càng có ý nghĩa hơn khi nhiều ngành hàng của Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Năm ngoái, kết quả nghiên cứu do CEL Consulting công bố, cho thấy mức tổn thất trung bình từ sản xuất, xử lý sau thu hoạch, lưu trữ và vận chuyển đến điểm phân phối trái cây, rau, thịt và hải sản tại Việt Nam là 25,4%, cao hơn 5,3% so với tiêu chuẩn của tổ chức Nông nghiệp và lương thực Liên hiệp quốc (FAO) định ra đối với Nam và Đông Nam Á.
Nghiên cứu này còn cho thấy, chỉ có 14% nhà sản xuất Việt Nam liên kết các giải pháp với chuỗi lạnh, trừ ngành thuỷ sản chiếm 42,1%. Trong khi việc sử dụng chuỗi lạnh đối với nhà xuất khẩu là 66,7%, thì các nhà sản xuất, cung cấp cho thị trường nội địa chỉ áp dụng chuỗi lạnh có 8,2%.
Đánh giá năng lực cung cấp dịch vụ của kho lạnh tại Việt Nam hiện nay, theo Emergent Cold (2019): hơn 50% doanh nghiệp có thể cung cấp được từ 6 – 7 dịch vụ trong kho lạnh. Hơn 20% doanh nghiệp cung cấp được từ 9 – 11 dịch vụ, và 20% là cung cấp ít hơn 5 dịch vụ. Một phần rất nhỏ doanh nghiệp cung cấp được 16 dịch vụ trong kho lạnh. Các dịch vụ được cung cấp chủ yếu: dịch vụ vận tải và phân phối, dịch vụ cross-docking, dịch vụ giá trị gia tăng như bốc xếp hàng hoá; dịch vụ thay bao bì, in tem, dán nhãn; dịch vụ giao nhận, vận tải hàng hoá và container từ nhà máy hoặc cảng; lựa hàng, phân loại hàng hoá theo yêu cầu…
Cần thêm chuỗi cung ứng tích hợp
Gắn với kho lạnh là vận tải lạnh tích hợp vào chuỗi cung ứng. Hiện nay, khá nhiều công ty vận tải đầu tư để tham gia vận tải lạnh. Do thiếu chính sách đầu tư trọng điểm thúc đẩy hệ thống kho lạnh nên hàng hoá từ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đi khắp nơi, nhưng dịch vụ có tỷ lệ khai thác rất cao thuộc về Swire Cold Storage Vietnam, Lotte Logistics Vietnam, Konoike Vina, CLK Cold Storage, Sojitz and Kokubu, Mekong Logistics, Kuehne Nagel, Preferred Freezer Services, Panalpina, Triton Container International, DB Schenker, Agility Logistics Vietnam, APL Vietnam, Maersk Line, Transimex, MP Logistics, Vinafco Vietnam, HPD, Emergent cold, ABA Cooltrans, Panasato, Phan Duy, Alpha, Quang Minh, Satra, Lotte – Sea…
Riêng ABA Cooltrans có kế hoạch bổ sung thêm 200 xe tải và hai cơ sở lưu trữ lạnh vào năm 2020. Trong khi đó, John Swire & Sons đang vận hành một mạng lưới kiểm soát nhiệt độ tại hệ thống nhà kho trải dài khắp Việt Nam, với năng lực khoảng 275.000 pallet không gian lưu trữ lạnh, sử dụng các công nghệ kho và vận chuyển tích hợp tiên tiến.
Năm 2018, theo bộ Kế hoạch và đầu tư, tổng số vốn đăng ký vào lĩnh vực kho bãi và vận tải là 486,75 triệu USD, luỹ kế số dự án còn hiệu lực đến đầu quý 4/2019 là 791 dự án, với tổng số vốn đăng ký là 4.986,92 triệu USD, chiếm 2,68% tổng số dự án và 1,41% tổng số vốn so với tổng số các dự án trong các ngành. Tuy nhiên, trong khi đồng bằng sông Hồng thu hút nguồn vốn chiếm 38,8%, Đông Nam bộ (33,8%), thì ĐBSCL chỉ thu hút được 5,2%, cao hơn Tây Nguyên (2,4%).
Các nhà kho có hệ thống lạnh, sẽ tăng mạnh trong năm năm tới, theo công ty CBRE, nghiên cứu nhu cầu về không gian lưu trữ lạnh. Tuy nhiên, lĩnh vực quan trọng này được nhận thức rất khác nhau giữa các địa phương, ngay cả trong cách định nghĩa logistics.
Tại ĐBSCL, năm 2015, Mekong Logistics được công ty Minh Phú và công ty CP Gemadept Logistics đầu tư ở tỉnh Hậu Giang, hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản được xem là kho lạnh lớn nhất ở ĐBSCL, sức chứa 50.000 pallet. Trong khi đó, các nhà kho do doanh nghiệp vừa và nhỏ tự đầu tư chỉ có sức chứa khoảng từ 50 – 150 tấn, hoặc các nhà kho cỡ vừa cũng chỉ có từ 3.000 – 10.000 pallet. Nhiều doanh nghiệp hiểu tầm quan trọng kiểm soát nhiệt độ đối với mặt hàng nông sản, muốn chủ động kiểm soát để an tâm về chất lượng hàng hoá theo kiểu “liệu cơm gắp mắm”, nhưng lại ngại thuê kho ngoài dễ bị rò rỉ thông tin.
Hoàng Lan (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này