09:22 - 05/12/2019
Đồng bằng thay áo mới?
Những năm qua, nông dân đồng bằng đã có nhiều thích nghi với tình thế thay đổi: họ giảm đất lúa, tăng diện tích nuôi thuỷ sản và trái cây; hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn, gắn kết nông dân và doanh nghiệp (DN), thay vì hầu như chỉ có thương lái như trước đây; và cũng đã phát triển nhiều mô hình tốt thích ứng biến đổi khí hậu.
Thay đổi nghịch cảnh
Tại hội nghị thảo luận về chương trình hợp tác Việt Nam – Hà Lan để chuyển đổi nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong nỗi lo biến đổi khí hậu đang mang lại nhiều rủi ro và tổn thương, vừa diễn ra ở Cần Thơ, các ý kiến đều tìm các giải pháp biến nghịch cảnh thành cơ hội (nghịch cảnh chứ không còn là thách thức). Quả thực, lượng nông sản càng tăng thì nguồn lực đất, nước càng kiệt sức, kéo theo thu nhập – đời sống người nông dân càng nghèo thêm. Quy hoạch các ngành sản xuất ngoài lúa chưa được thực hiện, vì thế, nạn xâm lấn rừng, nuôi trồng thuỷ sản thiếu kiểm soát đang dẫn tới những vấn nạn: giảm tăng trưởng, thu nhập nông dân thấp và rủi ro cao, sinh kế bị phá huỷ, bùng lên nạn di cư tự phát, môi trường bị tàn phá và bất ổn xã hội. Các tác động của biến đổi khí hậu, cộng thêm vào bức tranh chậm chuyển đổi nông nghiệp trong thực tế: nước biển dâng, sạt lở và ngập lụt các đô thị; hạn hán, tiêu huỷ lúa gạo và gây khủng hoảng về nước, nạn sụt lún, sạt lở gây bất an xã hội…
Những giải pháp chính đã được nhắc đến nhiều: thay đổi quy hoạch, giảm bớt diện tích lúa, tăng thêm thuỷ sản, trái cây, chăn nuôi và đặc biệt, chú ý phát triển sản phẩm chất lượng cao, giá trị cao. Quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng, thay đổi tình trạng tất cả quy hoạch là có hệ thống thuỷ lợi để làm lúa; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và tăng thu nhập đầu người cho cư dân đồng bằng, chú trọng các điều kiện về giáo dục, y tế, văn hoá…
Cần chất keo kết nối mới giữa DN và nông dân
DN tìm mọi cách để tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng chất keo kết nối họ với nông dân chưa chặt chẽ. Nhiều thủ tục và rào cản cũ vẫn còn chi phối. Những doanh nhân mà tôi gặp trong hội thảo như TS Nguyễn Thanh Mỹ, hay doanh nông Nguyễn Lâm Viên đều “bỏ nhỏ” với tôi, mình vẫn phải tự thân bỏ vốn ra, tìm người phù hợp để tiến hành công việc. Đến khi công trình đã hình thành, đã chạy rồi thì “có nhờ các anh” giúp cho tiến độ khá hơn thì may ra, còn chờ giúp đỡ thì… lâu lắm.
Ông Mỹ bỏ ra hơn chục triệu USD tự xây một cù lao nông nghiệp sạch, công nghệ cao và cho ra đời hàng loạt sản phẩm công nghệ phục vụ đồng bằng. Ông Viên còn quyết liệt hơn khi tự xây dựng đội ngũ, và nhiều nông trại kiểu mới hoàn toàn theo nông pháp sinh học, với niềm tin là sẽ mang về đồng bằng để nhân rộng ra. Rõ ràng, các doanh nhân này vừa có vốn, có kỹ thuật và có luôn thị trường nên có nhiều sự đổi mới, sáng tạo có hiệu quả, hy vọng có những đóng góp thực tế. Họ cũng siêng đi họp các cuộc họp “Nhà đầu tư công nghệ cao cho nông nghiệp, để tham gia liên kết bốn nhà”, vốn được nói quá nhiều, nhưng làm còn khá khiêm tốn.
Phân ba vùng sản xuất
Theo sáng kiến tại hội thảo, đồng bằng nên phân vùng quy hoạch làm ba khu vực: vùng thượng nguồn cho gạo và cá tra (nói theo dân gian là cho CƠM với CÁ); vùng giữa là cho trái cây cùng thuỷ sản nước ngọt và nước lợ; và vùng ven biển thuỷ sản, kết hợp sinh thái hữu cơ, du lịch sinh thái. Cuộc thảo luận cũng đề nghị: cần quy hoạch tích hợp, trong đó DN tham gia các vùng nguyên liệu xuất khẩu theo yêu cầu của họ. Tất nhiên, cũng có ý kiến phân tích về độ lớn của thị trường nội địa mà lâu nay, ta mãi lo đi “đánh bắt xa bờ”, khi quay lại thì thị trường đã vào tay gạo Thái, Nhật, trái cây Trung Quốc…
Ngoài ra, yếu tố thị trường và các điều kiện hình thành hệ thống logistics của đồng bằng, nhắc tới thì ai cũng thấy đau đầu. Với chi phí hơn 30% cho vận chuyển từ đồng bằng lên đến TP.HCM, hầu như việc xuất bán trong nước hay xuất khẩu cũng đều là “tiếng thở dài” cho nông dân, DN. Chưa kể hạ tầng hậu cần từ kho mát, kho lạnh, cảng, bao bì… cũng quá kém.
Không chỉ có những tiếng kêu ca, từ cuộc thảo luận cũng đã gợi mở, hình thành các nhóm hợp tác khá cụ thể, mang lại những hy vọng mới. Hai chữ mà các doanh nhân thường nhắc nhau khi tham gia kinh doanh nông sản: hành động và theo đuổi, xem ra khá là phù hợp vào lúc này.
Vì sao có đánh giá thời điểm này của đồng bằng là đã tới điểm tới hạn? Vì là lúc gặp nhiều khó khăn nhất từ thị trường (mua bán tiểu ngạch với Trung Quốc ngưng trệ, các thị trường lớn đòi hỏi ngặt nghèo về tiêu chuẩn và tính chuyên nghiệp), đời sống người nông dân khó khăn vì thu nhập thấp và bấp bênh. Vì vậy, cũng lại là “cơ hội” khi mọi người đều nhận thấy phải “thay đổi hay là chết” rồi.
Vũ Khánh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này