09:44 - 16/01/2023
GS.TS Trần Văn Thọ: Sâu công nghệ, tinh nhân lực để hình thành nền kinh tế mới
Các trào lưu mới của thế giới đang bao hàm ba yếu tố chính: (1) Công nghệ thông tin, kỹ thuật số phát triển và ảnh hưởng tới cung cầu lao động. (2) Tác động của đại dịch và (3) Những biến động về quan hệ kinh tế chính trị thế giới, trong đó có cuộc chiến tranh Nga – Ukraine (*).
Các trào lưu mới này đã gây tác động kinh tế xã hội thế giới, như rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, dẫn tới mức cầu lao động bị giảm, đặc biệt là lao động tương đối giản đơn. Ở chiều khác, nhu cầu lao động kỹ năng cao không ngừng tăng.
Công nghệ làm thay đổi cung cầu lao động
Từ hơn 10 năm nay, công nghệ thông tin, kỹ thuật số và tự động hóa đã làm thay đổi sâu sắc cung cầu lao động. Đến 2030, thế giới có tới 400 triệu lao động (12%) bị thay thế bằng tự động hóa, từ 400 triệu đến 1 tỷ lao động (12-30%) hiện đang làm việc sẽ phải tự thay đổi kỹ năng để thích ứng, để tiếp tục được làm việc.
Sử dụng robots, thiết kế tự động hóa làm giảm nhu cầu lao động. Tại nhiều nước công nghiệp phát triển, sản lượng công nghiệp tăng nhưng lao động công nghiệp giảm. Nhiều công ty đang hướng đến xây dựng nhà máy thông minh (smart factory). Ngoài ra, công nghệ thông tin cũng thúc đẩy việc cung ứng dịch vụ lao động mà không cần phải di chuyển, tức là người ta có thể làm việc từ xa hay cung cấp dịch vụ từ xa, hoặc dùng người máy để điều khiển dịch vụ lao động. Các nhà máy sử dụng robot, các dây chuyền tự động hóa làm giảm cầu lao động và ở Việt Nam khuynh hướng này cũng đang diễn ra.
Các công ty có khuynh hướng giảm lao động chính thức, gắn kết lâu dài mà thay vào đó tăng lao động làm khoán ngắn hạn và lao động đồng thời làm việc cho nhiều công ty theo các nhu cầu khác nhau (gig worker). Số lượng gig worker đăng ký của một công ty môi giới ở Nhật tăng ba lần chỉ trong một năm (từ tháng 10/2019 đến tháng 10/2020).
Dịch Covid cũng đã ảnh hưởng đến lao động. Để tránh lây nhiễm, các nước đã giảm nhập khẩu lao động. Các công ty có khuynh hướng giảm lao động chính thức nhưng tăng lao động thời vụ và ngắn hạn, thuê lao động làm việc ở tại nhà hoặc là lao động kiêm nhiệm cho những nhu cầu khác nhau.
Lực lượng lao động Việt Nam khá đông đảo, nhưng phần lớn chưa có đủ năng lực và chưa thể thích ứng với yêu cầu mới.
Nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo mới
Đứt gãy các chuỗi cung ứng không những ảnh hưởng đến công nghiệp mà còn làm giảm sản xuất lương thực trên thế giới. Thế giới vốn thiếu lương thực, đại dịch và cuộc chiến Ukraine làm cho vấn đề trầm trọng hơn – theo các báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Nga và Ukraine chiếm 30% lượng lúa mì xuất khẩu thế giới. Bến cảng ở Ukraine bị phong tỏa và hạ tầng bị phá hoại làm cho việc sản xuất và xuất khẩu khó khăn. So với năm 2020, giá lương thực thế giới hiện nay đã tăng trung bình 50%.
Năm 2015, Liên Hiệp Quốc đưa ra mục tiêu đến năm 2030 thế giới sẽ không còn người thiếu ăn, nhưng tình hình hiện nay cho thấy mục tiêu này bất khả thi. Một số nước tiêu thụ lương thực nhiều cũng có khuynh hướng ngày càng tùy thuộc lương thực nhập khẩu. Tỷ lệ tự cung cấp lương thực của Trung Quốc giảm từ 95% năm 2000 xuống 75% năm 2020.
Các hãng đại công nghệ (Big Tech) đã tạo nên làn sóng các công ty mới, phát triển nhanh như Facebook, Apple, Amazon, Netflix, Google. Nhóm này gọi chung là FAANG. Tuy nhiên, các yếu tố địa chính trị và địa kinh tế từ cuối tháng 2/2022 đến nay đã làm xuất hiện nhóm công ty FAANG thế hệ mới, hay FAANG 2.0. mà trong đó nông nghiệp (Agriculture) có vai trò quan trọng hơn trước. (Xem bài về FAANG 2.0 bên cạnh).
Những đặc tính của kinh tế Việt Nam dễ bị ảnh hưởng từ đại dịch và các trào lưu mới của kinh tế chính trị thế giới. Bởi mức độ hội nhập của Việt Nam rất cao: Thương mại lên đến 200% GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 70% xuất khẩu và 50% sản lượng công nghiệp. Đây là thách thức lớn của nền kinh tế bởi mức độ hội nhập cao, nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường và cơ cấu thiếu bền vững.
Nông nghiệp Việt Nam đã có vai trò quan trọng hơn trong các biến động toàn cầu vừa qua. Trong khi các quốc gia trên thế giới chịu áp lực tăng giá nặng nề của lương thực, thực phẩm thì ở Việt Nam nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn đóng vai trò bệ đỡ cho nền kinh tế hướng về xuất khẩu, nhờ đó hãm lại đà tăng của chỉ số giá tiêu dùng.
Xây dựng nền kinh tế vững mạnh và tự chủ
Nền kinh tế Việt Nam cần bao hàm nội dung cần thiết: phải thâm sâu công nghiệp hóa, xây dựng nền công nghiệp thực phẩm chủ lực và chú trọng tới cái khu vực dịch vụ và sản phẩm y tế.
Về nhu cầu thâm sâu công nghiệp hóa, cần giảm hình thức gia công (cả trong công nghiệp lẫn nông nghiệp) và tăng cường thêm hoạt động chế tạo, thiết kế mới.
Đồng thời cần thiết phải hỗ trợ doanh nghiệp trong nước, nhất là những doanh nghiệp nhỏ và vừa để họ có thể tham gia quá trình “thâm sâu công nghiệp hóa”. Chính sách này cũng có thể giúp thêm một phần nữa là giảm phụ thuộc nhiều vào FDI.
Vấn đề hiện nay là phải khẩn trương tăng cường cung cấp lao động chất lượng cao. Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược phát triển để tạo công ăn việc làm cho lực lượng khoảng 65 triệu lao động lúc này và cho 70 triệu lao động trong 15 năm tới.
Lượng nhân lực này cần cho cả khu vực công, nông và dịch vụ. Đặc biệt là có chiến lược thâm sâu về công nghiệp hóa thì cũng cần thiết phải chú trọng nông nghiệp giữa thời đại mới nhằm đảm bảo an ninh lương thực cũng như an ninh kinh tế.
Để đáp ứng căn cơ nhu cầu này, phải chú trọng tới chương trình giáo dục và đào tạo để có một lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu mới. Một đặc điểm của lao động thời đại mới là: “kỹ năng là quan trọng hơn bằng cấp”.
Kết quả khảo sát Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) công bố hồi tháng 5.2022 cho thấy sự thật không vui và đáng ngạc nhiên. Năm 2020, JICA điều tra thì thấy tới 61% lực lượng lao động Việt Nam chỉ học hết cấp 2 và 15% tốt nghiệp cấp 3, chỉ 24 % có trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Do đó, đào tạo lao động cho nhu cầu mới là chuyện cấp thiết.
Ngoài ra, nếu tính về cấu trúc của nền kinh tế, ngoài khu vực nông nghiệp chiếm khoảng chừng 30% lao động thì trong công nghiệp và dịch vụ cũng có gần 30% ở khu vực phi chính quy, tức là 19 % GDP vào năm 2019. Hầu hết những đơn vị tế bào của khu vực này là các hộ cá thể hay là các doanh nghiệp tư rất nhỏ, siêu nhỏ (MSME). Đây là khu vực thể hiện sự chậm tiến, yếu kém về năng suất, thu nhập thấp, không có bảo đảm xã hội. Nếu như Việt Nam nuôi tham vọng trở thành nước có thu nhập cao, việc đổi mới sáng tạo phải bắt đầu từ khu vực này.
Lực lượng phi chính quy chuyển sang chính quy sẽ biến các đơn vị cá thể này thành ra các doanh nghiệp SME. Hiện lực lượng này chiếm khoảng 10% lao động. Sau khi khu vực phi chính quy chuyển sang chính quy, số lượng SME sẽ rất là lớn và từ đó lại cũng đòi hỏi lực lượng lao động kỹ năng cao rất đông đảo.
Cần những chương trình đào tạo mới cũng như là những chương trình tái đào tạo dành cho lao động, thích ứng với kỹ thuật mới, công nghệ mới, điều kiện lao động mới.
Và cũng quay lại vấn đề: kỹ năng quan trọng hơn bằng cấp.
Vấn đề chung của lao động của Việt Nam cần được quan tâm chặt chẽ, kiên trì và cần tạo động lực cho người lao động. Họ cần phải tự đào tạo tự nâng mình lên trước những thách thức không thể né tránh nữa.
Song Hảo (theo TGHN)
————–
(*) Tóm lược bài trình bày “Kinh tế Việt Nam trước những biến động của thế giới” tại Đại học Quốc tế miền Đông (EIU).
Có thể bạn quan tâm
‘The Taste of Things’ quả của giấc mơ duy mỹ
Chuông vọng xứ người – bò bún
Phù phiếm giấm nuốc?
Thế giới tiêu dùng trong vũ trụ số ở Trung Quốc
Nguyễn Hàng Tình: Bây giờ chúng ta sống ‘lạ’ quá
Tags:Trần Văn Thọ
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này