10:43 - 05/02/2022
CG Đào Trung Thành: Nếu không chuyển đổi số, chúng ta chắc chắn sẽ bị tụt hậu
Đầu xuân, chuyên gia Đào Trung Thành đã có những chia sẻ thiết thực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), đặc biệt là vùng ĐBSCL về chiến lược chuyển đổi số nhằm giúp cho doanh nghiệp thực hiện việc xây dựng và cơ cấu lại hoạt động sản xuất, kinh doanh trong sự liên kết và bền vững.
– Ông có thể phác thảo ra một bức tranh kinh tế sẽ phục hồi như thế nào nếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng ráo riết thay đổi, chịu đầu tư thực sự cho công nghệ chuyển đổi số để phù hợp với xu hướng kinh tế trong thời đại “bình thường mới”?
– Trước tiên, cần phải khẳng định rằng chuyển đổi số (digital transformation) là một tất yếu. Nếu chúng ta không chuyển đổi (transformation) với sự hỗ trợ của công nghệ số (digital technology) thì chắc chắn sẽ bị tụt hậu, mất đi lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh nhiều rủi ro và thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra. Đại dịch đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số ở cấp quốc gia cũng như ở doanh nghiệp do việc giãn cách không thực hiện được các giao dịch trực tiếp, làm việc từ xa cần có việc chuyển đổi mô hình làm việc, mô hình vận hành doanh nghiệp từ trực tiếp (offline) sang trực tuyến (online), ngân hàng và dịch vụ tài chính chuyển sang ngân hàng số hóa và cung cấp các dịch vụ tài chính trực tuyến.
Như vậy, nếu như các doanh nghiệp SMEs Việt Nam nắm bắt được cơ hội này thì khả năng phục hồi nền kinh tế của chúng ta sẽ nhanh hơn và quan trọng nhất là các doanh nghiệp có thể tồn tại.
– Nhưng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp ở miền Nam và vùng đồng bằng chủ yếu khai thác nông nghiệp và thủy sản, đang rất cần một sự liên kết và hồi phục sau đại dịch Covid-19 vừa qua, ông có thể đưa ra một số lời giải cho bài toán chuyển đổi số phù hợp – thay vì còn bị luyến tiếc bởi sản xuất và kinh doanh truyền thống thì nhân dịp này lột xác để hòa nhập với dòng chảy của xu hướng kinh tế toàn cầu?
– Với tư cách là một nhà tư vấn chuyển đổi số cho nhiều tập đoàn lớn như Viettel, VNPT, MobiFone, PV GAS, MBBank,…thì những doanh nghiệp này đã có sự chuẩn bị khá lâu và đầy đủ. Nhưng những SMEs thì mức độ đầu tư thấp hơn, theo một báo cáo nghiên cứu của CISCO và IDC năm 2020 thì các doanh nghiệp SMEs Việt Nam đứng cuối bảng trong khảo sát doanh nghiệp của 14 quốc gia khu vực APEC và ở mức lãnh cảm số. Nghĩa là mức xuất phát điểm khá thấp.
Quan sát của tôi thì trong những năm gần đây ngành nông nghiệp có những chuyển biến ban đầu, công nghệ tiên tiến như Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (big data) bắt đầu được ứng dụng thông qua các sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây, người tiêu dùng có thể truy xuất và theo dõi các thông số này theo thời gian thực. Ngành chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ số nhiều nhất, với mô hình nổi bật là các trang trại hiện đại của tập đoàn TH TrueMilk và công ty Vinamilk.
Trong thủy sản, cũng chuyển đổi số mạnh mẽ như việc sử dụng thiết bị dò cá sử dụng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh; máy thu lưới vây, hệ thống thu – thả lưới chụp, công nghệ GIS và hệ thống định vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, lai tạo các giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi trường, công nghệ nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc, công nghệ nano, công nghệ nuôi lồng trên biển, công nghệ nuôi cá nước lạnh.
Nghĩa là phần công nghệ số phát triển khá tốt. Dù chuyển đổi số cần công nghệ, nhưng chuyển đổi số cần được dẫn dắt bởi chiến lược chứ không phải công nghệ. Do đó, tôi cũng quan tâm đến các vấn đề chiến lược như quy hoạch ngành nghề thế nào, việc các hộ nông dân và cả các SMEs đã thực hiện liên kết trong một hệ sinh thái chưa? Và có quan tâm đến mô hình nền tảng (platform model) trong mô hình vận hành của mình không? Liên kết ở đây là tận dụng thế mạnh của cả một vùng kinh tế với những liên kết tăng cường những năng lực của từng thành viên. Các SMEs cũng cần thay đổi tư duy thay vì chỉ cạnh tranh sang “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” hay theo một thuật ngữ mới là “tranh hợp” (coopetition). Nói chung cần phải bắt đầu suy nghĩ nhiều về mô hình kinh doanh mới và những giá trị mới mà các doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng và thị trường để từ đó sử dụng công nghệ như một chất xúc tác và như một đòn bẩy.
– Ông có cho rằng nếu chúng ta không thay đổi các phương thức và chiến lược kinh doanh để bắt kịp với xu hướng kinh tế thế giới, chúng ta sẽ luôn chỉ là “công xưởng” và là một đất nước của nhân công- công nhân với nguồn thu nhập thấp bởi mức lương rẻ mạt?
– Vâng. Rõ ràng là thế giới đang hướng đến những kỹ năng, năng lực mới với sự tiến bộ của công nghệ tiên tiến như AI, robotics, big data, IoT, AR/VR. Nếu chúng ta không thể cung cấp những năng lực này thì sớm muộn cũng bị công nghệ thay thế và trở thành một “tầng lớp vô dụng” (useless class) – từ dùng của sử gia Yuval Harari, tác giả Sapiens, Homo Deus.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về công nghiệp 4.0 với chủ đề “Phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội bền vững thời kỳ hậu Covid-19, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỷ nguyên số” do Ban Kinh tế trung ương tổ chức đầu tháng 12.2021 nhấn mạnh “Muốn chuyển đổi số, công nghệ số phải có xã hội số, công dân số”. Với quan điểm lấy con người là trung tâm, chủ thể, động lực cho mục tiêu phát triển thì chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa đến “con người số” trong chiến lược phát triển của mình. Nhưng mà xây dựng con người mới, có kỹ năng số thành thạo lại không thể nhanh như mua công nghệ được. Chúng ta hy vọng vào tương lai tươi sáng của Việt Nam. Nhưng cần biết mình đang ở đâu để không quá ảo tưởng. Tôi cũng không thích thuật ngữ “đi tắt, đón đầu” vì những thứ tốt đẹp và bền vững đều cần quá trình bền bỉ, thận trọng và kiên nhẫn.
– Liệu giáo dục hiện nay có cho ra nguồn nhân lực thích ứng với thời đại số hóa của tương lai? Muốn có và đẩy nhanh tiến độ đào tạo năng lực thì phải làm thế nào?
– Vấn đề nguồn nhân lực là vấn đề đáng lo ngại nhất và không thể nhanh như tôi trình bày ở trên. Trong Báo cáo năng lực cạnh tranh của Diễn đàn kinh tế thế giới 2019, Việt Nam xếp hạng cuối trong khu vực về kỹ năng số của lực lượng lao động. Điều này phần nào tác động tiêu cực đến hành trình chuyển đổi số của doanh nghiệp. Còn theo khảo sát của Phòng Thương mại – công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), với hơn 400 doanh nghiệp tại Việt Nam vào năm 2020, thiếu nhân lực để thực hiện chuyển đổi số là 1 trong 5 rào cản của doanh nghiệp, nhất là SMEs trong chuyển đổi số.
Một sáng kiến khá hay của Singapore là xây dựng khung kỹ năng, cấu phần chính của “Bản đồ chuyển đổi công nghiệp” để cung cấp thông tin về lộ trình nghề nghiệp, các kỹ năng mới cần thiết và danh sách các chương trình đào tạo nâng cấp kỹ năng. Chẳng hạn, khung kỹ năng ngành năng lượng cung cấp các thông tin về việc làm và kỹ năng cũng như tương lai của ngành này, như cơ hội việc làm, lộ trình nghề nghiệp, triển vọng việc làm, các kỹ năng mới và hiện thời… Người lao động sử dụng khung kỹ năng để xác định các kỹ năng cần phát triển mới, hoặc trau dồi ở những ngành công nghiệp hiện tại, hay ở các ngành công nghiệp mới họ muốn tham gia.
Các doanh nghiệp sử dụng khung để xác định các việc làm mới, trang bị các kỹ năng phù hợp cho người lao động khi chuyển đổi số. Các tổ chức giáo dục và đào tạo sử dụng để thiết kế và cung cấp các chương trình và khóa đào tạo phù hợp. Skillsfuture Singapore, một tổ chức của chính phủ Singapore, đề xuất sáng kiến này đã giới thiệu khung cơ bản gồm 16 kỹ năng mà công dân thời đại 4.0 cần nắm để có thể điều hướng trong thế giới công nghệ thay đổi theo hàm mũ.
– Mekong Conect 2021 nhấn mạnh đến việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo chuỗi liên kết phát triển của các doanh nghiệp ĐBSCL vừa diễn ra, ông nghĩ gì về “sức mạnh của mô hình dẫn dắt” dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế?
– Việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo chuỗi liên kết phát triển của các doanh nghiệp ĐBSCL là việc làm hết sức cần thiết. Chuyển đổi số lại là vấn đề chưa có tiền lệ, cho nên chúng ta vẫn phải “nghĩ lớn, làm nhỏ và nhân rộng nhanh” (Think big, Do small, Scale fast). Tuy nhiên vì mỗi doanh nghiệp có những đặc thù riêng nên không thể áp dụng máy móc các mô hình nào cả hay nói cách khác không có một phương pháp one-size-fits-all trong tiếp cận vấn đề phức tạp như kinh tế. Chúng ta có thể tham khảo những mô hình nhưng rồi vẫn phải vạch ra cho mình những hướng đi riêng, phù hợp.
Ngân Hà thực hiện (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này