10:50 - 27/01/2018
Phác hoạ Nghê: linh vật giữ linh hồn
Sau mười năm thu thập tư liệu và biên soạn, mới đây hoạ sĩ Trần Hậu Yên Thế cùng cộng sự đã cho ra mắt cuốn sách dày hơn 300 trang có tên ‘Phác hoạ Nghê – gã linh vật bên rìa’.
Như tên gọi: Phác hoạ Nghê dựa trên tập hợp cứ liệu thu thập được, mở ra những hướng tìm hiểu sâu hơn về một con vật không có thật, nhưng xuất hiện tương đối đậm đặc trong không gian văn hoá Việt từ thế kỷ 16 – 19.
Xuất phát từ điểm nhìn từ đền vua Đinh, vua Lê (Hoa Lư, Ninh Bình), nhóm hoạ sĩ đã dựng lên chân dung Nghê – “gã linh vật bên rìa” ở nhiều tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất là đã định vị được Nghê trong không gian cụ thể của triều đại phong kiến Việt Nam. Tầng nghĩa thứ hai là từ điểm nhìn định vị ban đầu, tạo ra một tương quan đối sánh Nghê đặt trong những không gian khác (đình, chùa, miếu, mạo…). Tầng nghĩa thứ ba là đặt trong tương quan ứng xử của con người theo thời gian, từ thời trung đại đến hiện đại.
Với tần suất xuất hiện chỉ đứng sau rồng theo khảo sát, nhưng Nghê nằm ngoài hệ thống tứ linh trong quan niệm của người Việt đương thời, gồm Long (rồng), Ly (lân), Quy (rùa), Phụng (phượng), là linh vật “chầu rìa”. Điều này căn nguyên là do “hình thức tạo hình, giá trị biểu tượng của Nghê là sự pha trộn với sư tử (Ấn Độ), long, kỳ lân, dê (Trung Hoa) và chó (Đông Nam Á)”; do ảnh hưởng quan niệm thẩm mỹ của phong kiến Trung Hoa, hay do chính quan niệm đã định hình “phượng múa, nghê chầu”, nghĩa là làm phượng thì múa, làm nghê thì chầu?
Tác giả đã chỉ ra, khi đặt ở các vị trí khác nhau, với trạng thái khác nhau, làm từ những chất liệu khác nhau nhưng dạng thức thường thấy của Nghê là chầu. Thường thì Nghê chầu theo đôi, quay mặt vào nhau, hướng nhìn lên (khác với sư tử Trung Quốc hướng nhìn xuống dưới). “Nghê là chỉ giới cõi thiêng, chỉ hiệu nơi thần linh trú ngụ… khi ta vái lạy tổ tiên, thần linh, thần Phật, dù Nghê có ở đó cũng chỉ phận đứng hầu. Nghê không phải đối tượng bái lạy”. “Chỉ có Nghê thờ chứ không có thờ Nghê” (trích sách).
Nhóm tác giả cũng đã chỉ ra Nghê có bốn dạng chính là sư tử nghê, long nghê, khuyển nghê, lân nghê. “Sư tử nghê thân thường mập và ngắn, xuất hiện nhiều trong mỹ thuật Lý – Trần, gắn bó mật thiết với Phật giáo, nhìn chung to lớn, thường cõng toà sen, Hộ pháp”. “Long nghê đầu rồng, miệng lớn, râu dài, ức có ngấn chạy xuống bụng, bắp chân có chớp lửa…, dạng long nghê chủ yếu xuất hiện trên bờ mái với tên gọi con kìm. Dạng thức này đã thấy nhiều thời Lê Trung Hưng”. Khuyển nghê “mang những đặc tính chó nhiều nhất, mình không có vẩy, đầu cũng chẳng có sừng, mình có thể trơn, dáng hình có thể mập như dạng nghê trên đỉnh hương, đội bảng văn hay cối lửa, thành bậc… Khuyển nghê chủ yếu ở chốn bình dân nên thường thấy trong chạm khắc dân gian đình làng, sinh từ, am miếu”. “Kỳ lân nghê mình vẩy, lưng có kỳ, có sừng, xuất hiện trong khu vực gian thờ cúng đứng chầu bên hương án, cửa khám rất thịnh thời Lê Trung Hưng… Dạng kỳ lân nghê xuất hiện phổ biến trên các trụ cổng tam quan chùa, cổng làng với ý nghĩa phân biệt ngay gian, tà chính”.
“Trong kho tàng mỹ thuật cổ truyền của người Việt, nghê là linh vật có khuôn mặt biểu cảm nhất, là linh vật mang chất người nhất”. “Lúc thì trầm lắng, trang nghiêm, lúc thì nghênh nghênh, phóng túng”. “Cung cách bông lơn, bộ dạng dung tục đến hồn nhiên, vẻ như bất chấp mọi lễ giáo và khuôn phép của những gã nghê được đục đẽo, tô đắp một cách hả hê, làm náo nức các mảng chạm, bất kể đó là ở đình, ở chùa hay lăng tẩm, đền miếu. Hiếm có linh vật nào có thần thái sinh động như nghê, đủ cả hỷ nộ ái ố” (trích sách).
Người đọc có cơ sở để tin rằng Nghê là một sáng tạo thuần Việt, tuy nhiên tính thuần Việt cần được hiểu là kết quả của sự tiếp biến văn hoá, chứ không phải một dạng thức văn hoá bản địa biệt lập, tách rời ra khỏi “Những dòng chảy văn hoá trong khu vực”. “Tạo hình Nghê Việt (bao gồm cả sư tử nghê) có nhiều điểm tương đồng và khác biệt với sư tử Trung Hoa. Tâm thế Đại Việt có được vị thế cao như vậy chính là nhờ có được từ những cuộc tiếp xúc với Trung Á, thông qua tộc người Khương Cư (Sogdian), chứ không phải chỉ có cuộc đối thoại duy nhất với người Hán từ thời Bắc thuộc” (trích sách).
Việt Nam hiện đại cần giữ tâm thế này như một chỉ dẫn gợi mở cho một nền văn hoá có chiều sâu bản sắc, thay vì quên lãng hoặc đơn thuần tận dụng những chi tiết, hình ảnh từ cuốn sách (bao gồm khoảng 400 phác thảo nghê dưới dạng đồ hoạ) để làm ra các sản phẩm một cách rập khuôn, máy móc. Cần nhớ rằng, điều làm nên văn hoá Việt là tinh thần Việt, cũng như, làm nên linh vật Nghê, cha ông đã cho nó linh hồn.
Hải An
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này