10:58 - 01/07/2017
Ngân hàng gian nan tăng vốn
Câu chuyện tăng vốn do khách quan và chủ quan, vẫn chưa được nhiều ngân hàng thực hiện. Mùa họp đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) năm nay, bài toán tăng vốn lại một lần nữa trở nên cấp thiết, nhất là trong bối cảnh thời hạn để thực hiện chuẩn Basel II – các quy định về cách tiếp cận vốn của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng – đang tới gần.
Theo kế hoạch, cuối năm 2018, 10 ngân hàng: BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB sẽ thực hiện chuẩn này. Theo thống kê, đã có 14 ngân hàng công bố kế hoạch tăng vốn trong năm nay và đã được ĐHĐCĐ thông qua. Ngân hàng có kế hoạch tăng vốn mạnh nhất là NCB, với mức tăng gấp đôi 2016, lên 6.010 tỷ đồng. Với kế hoạch tăng hơn 65% vốn điều lệ, từ mức 3.021 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng, NamABank đang là ngân hàng có mức tăng mạnh thứ hai. Để đạt được mức vốn mới, NamABank dự kiến sẽ phát hành cổ phiếu trả cổ tức gần 151 tỷ đồng, tăng vốn từ phát hành cổ phiếu mới là 1.828 tỷ đồng. Techcombank dự kiến sẽ chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu, qua đó, tăng vốn từ 8.878 tỷ đồng lên 13.878 tỷ đồng, tương đương với mức tăng 56% trong năm nay. Hai “ông lớn” BIDV và Vietcombank cũng có kế hoạch tăng vốn điều lệ khá lớn, lần lượt 4.445 tỷ đồng và 3.598 tỷ đồng.
Ai cũng nhìn thấy việc tăng vốn trong bối cảnh hiện nay là nhiệm vụ vô cùng cấp bách nếu như không muốn bị mất lợi thế cạnh tranh, mất thị phần, dẫn đến phương án phải bắt buộc mua bán – sáp nhập (M&A). Tăng vốn không những giúp đảm bảo được hệ số an toàn vốn (CAR) theo các chuẩn mới mà vô cùng quan trọng trong chiến lược mở rộng hệ thống chi nhánh, quy mô tín dụng, bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, chính lãnh đạo của nhiều ngân hàng cũng không dám tin về thành công của kế hoạch tăng vốn này.
Thực trạng nợ xấu cao, lợi nhuận kinh doanh bị ảnh hưởng nặng nề do phải trích lập dự phòng đã làm một số ngân hàng phải chia cổ tức bằng cổ phiếu hoặc giữ lại lợi nhuận để dành tăng vốn nhiều năm qua. Các cổ đông ngân hàng không ủng hộ giải pháp này. Kết quả hoạt động của các ngân hàng gần đây quá kém nên các cổ đông cũng không muốn rót thêm tiền vào. Trong khi đó, một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang phải thoái vốn dần khỏi các ngân hàng theo yêu cầu của Chính phủ, nên kế hoạch tăng vốn càng thêm khó khăn. Việc tăng vốn ảo như trước đây không thể thực hiện vì hiện nay NHNN đã giám sát chặt chẽ hơn và có thể yêu cầu các đối tác muốn trở thành cổ đông phải chứng minh được nguồn tiền và năng lực tài chính. NHNN cũng đã nắm được mạng lưới sở hữu chéo giữa các ngân hàng nên đầu tư góp vốn qua lại giữa các ngân hàng sẽ khó xảy ra.
Các ngân hàng đang trông chờ vào giải pháp chào bán lượng cổ phần lớn với mức giá mong muốn cho nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên, để bán được, mức giá bán phải có lợi cho cả hai bên. Đây là một vấn đề khó. Theo khảo sát, nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến việc đầu tư vào hệ thống ngân hàng của Việt Nam, kể cả những ngân hàng có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất hiện nay của họ chính là nới biên độ của room lên tối thiểu 51%. Bởi lẽ, với tỷ lệ sở hữu dưới 50%, họ khó để có tiếng nói quyết định đưa ra các chiến lược kinh doanh. Bỏ ra một khoản tiền rất lớn mà tỷ lệ nắm giữ chỉ 20-30% theo kiểu đầu tư tài chính, các nhà đầu tư ngoại không kiểm soát và chi phối hoạt động ngân hàng. Đó chính là lý do mà nhiều đối tác ngoại đã rút lui trong nhiều thương vụ đàm phán. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo NHNN và các cơ quan liên quan đề xuất tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam lên trên mức trần 30% hiện nay, thậm chí là 100% cho ngân hàng yếu kém, nhưng đến nay vẫn chưa có ngân hàng nào bán được 100% vốn cho cổ đông chiến lược là nhà đầu tư nước ngoài bởi vì chưa có quy định nào rõ ràng và cụ thể.
Giải pháp thu hút dòng vốn mới trong nước cho các ngân hàng hay hình thức sát nhập ngân hàng yếu vào ngân hàng mạnh để đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc ngành trong thời điểm hiện nay đều không khả thi. Định hướng cho giai đoạn tái cơ cấu ngành ngân hàng sắp tới, theo đánh giá của các chuyên gia tài chính phụ thuộc vào ý chí của Chính phủ và từng ngân hàng.
Tiểu Nhị
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này