09:47 - 24/05/2019
Dám gánh trách nhiệm xã hội, dễ lấy niềm tin người tiêu dùng
Trách nhiệm xã hội (CSR – Corporate Social Responsibility) không còn dừng lại ở các hoạt động thiện nguyện, trao quà cho người có hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta vẫn thấy các doanh nghiệp hay làm.
CSR ngày nay hướng đến mục tiêu trao quyền và phát triển bền vững, lâu dài thay cho cách làm từ thiện ngắn hạn.
“Chân dung” CSR
Bà Trần Thị Lan Anh, giám đốc văn phòng Giới sử dụng lao động thuộc VCCI, cho rằng từ góc nhìn CSR về giới, bất bình đẳng giới trong doanh nghiệp là vấn đề cần tiếp tục được quan tâm giải quyết. Chẳng hạn, hiện nay, ngành thuỷ sản sử dụng hơn 80% lao động nữ. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có tính mùa vụ, ở thời điểm “vô mùa” thì thường xuyên tăng ca, áp lực công việc, cường độ lao động cũng gia tăng. Từ lâu, bước qua tuổi 35, phụ nữ đứng trước áp lực đào thải rất cao. Tỷ lệ lao động nữ vẫn thấp hơn lao động nam, tập trung trong các lĩnh vực ngành nghề có yêu cầu chất lượng tay nghề, trình độ chuyên môn thấp nên tiền lương, tiền công và thu nhập bình quân của phần lớn lao động nữ thường thấp hơn so với lao động nam.
Bà Lan Anh cho rằng, khi doanh nghiệp chưa quan tâm tới việc thực hiện đối thoại với người lao động, bình đẳng giới tại nơi làm việc chưa được coi trọng, thì khó thực hiện CSR (dù việc này mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, giúp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp).
“Tại Việt Nam, nhận thức của doanh nghiệp về CSR mới ở mức tuân thủ. Việc cập nhật luật cho doanh nghiệp còn chậm”, bà Clemence Aron, giám đốc dự án Trách nghiệm xã hội doanh nghiệp – phòng Thương mại và công nghiệp Pháp tại Việt Nam (Chambre de Commerce et d’Industrie France-Vietnam – CCIFV), nhận xét.
Việt Nam là một trong sáu quốc gia được CCIFV chọn thực hiện dự án “Chuỗi cung ứng có trách nhiệm tại châu Á”. Dự án nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng thông minh, bền vững và toàn diện, qua việc hỗ trợ cách tiếp cận và thực hành CSR và đạo đức kinh doanh được áp dụng trong các chuỗi cung ứng toàn cầu. Dự án hướng đến việc tạo ra môi trường chính sách có lợi cho việc thúc đẩy hành vi có trách nhiệm; nâng cao năng lực thực hiện CSR dài hạn cho cộng đồng doanh nghiệp, nhằm cải thiện khả năng thâm nhập thị trường quốc tế.
Sau nhiều thời gian khảo sát, theo vị giám đốc CCIFV, ít doanh nghiệp quan tâm thông tin này.
“EU có bộ tiêu chuẩn đánh giá tuân thủ CSR trong kinh doanh (BSCI – Business Social Compliance Initiative)”, ông Vincent Gothknecht, giám đốc công ty I Schroeder, nói: “Muốn bán hàng sang EU, doanh nghiệp Việt phải bằng mọi cách chuyển đổi mới có được tấm vé để vào thị trường này!”.
BSCI ra đời năm 2003, từ đề xuất của hiệp hội Ngoại thương EU (FTA), với mục đích thiết lập một diễn đàn chung cho các quy tắc ứng xử và hệ thống giám sát ở châu Âu về CSR của doanh nghiệp.
Cần hiểu là CSR dành cho cả chủ lẫn người lao động. Có năm lý do để doanh nghiệp thực hiện CSR: 1/ Giảm chi phí, 2/ Đổi mới, 3/ Sự hài lòng của khách hàng, 4/ Hình ảnh thương hiệu, 5/ Gắn kết nhân viên và tác nhân tham gia hệ thống.
CSR tăng lòng tin cho sản phẩm
Là nhà phân phối hàng cho 2.000 nhà bán lẻ từ 40 quốc gia trên thế giới, I Schroeder được thành lập từ năm 1953 ở Đức, đã có mặt tại Việt Nam năm năm nay để mua trái cây, nông thuỷ sản chế biến của Việt Nam xuất đi EU. Ông Vincent Gothknecht chia sẻ: Tiếp cận thị trường EU, tất cả hàng hoá phải đi theo tiêu chuẩn, từ giấy chứng nhận tới các đánh giá về lao động, nhà xưởng, nguyên liệu an toàn, trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội. Nếu doanh nghiệp làm tốt CSR sẽ giúp tăng cường niềm tin đối với người tiêu dùng.
“Việt Nam đang phát động phong trào khởi nghiệp, khuyến khích thành lập công ty, khuyến khích người trẻ làm chủ. Nhưng chưa thấy các chương trình nào nói cho họ biết phải đưa CSR ngay từ khi thành lập công ty với những chương trình CSR thực hiện dài hạn, nếu muốn bán hàng ra nước ngoài”, ông Vincent Gothknecht nói, và nhấn mạnh ba chỉ tiêu chính bên mua luôn yêu cầu: tiêu chuẩn (quy cách, chứng nhận tuỳ thị trường, số lượng), xã hội (lao động trẻ em, chế độ cho người lao động, thực hiện đủ nghĩa vụ thuế…) và môi trường.
“Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho các sản phẩm của các công ty có uy tín về CSR”, bà Joyce Chau, giám đốc Asia Pacific, đại diện hiệp hội Thương mại tự do (Amfori) tại Bỉ cho biết. Theo bà Joyce Chau, thế hệ trẻ chiếm hàng ngàn tỷ đô la trong nguồn lực mua sắm toàn cầu.Đây là thế hệ có nhận thức mạnh mẽ về CSR của doanh nghiệp.
“Tại Việt Nam, năm 2018 chúng tôi có 571 cuộc thanh tra ở các nhà cung ứng, thực tế cho thấy ba thách thức: 1/ Hệ thống quản lý không chỉ gặp khó về nhân sự cấp thấp, mà còn cả quản lý cấp trung tới cấp cao); 2/ Giờ làm việc (quá nhiều giờ làm việc, trong khi năng suất lao động lại thấp); 3/ An toàn lao động chưa được chú trọng. So với tốp dẫn đầu ở ASEAN – có mức độ “rủi ro thấp” – Singapore được đánh giá 89 điểm về an toàn, và Brunei là 70,5 điểm, trong khi Việt Nam là 41,2 điểm, cao hơn Myanmar (19,8 điểm); Campuchia (24,7 điểm) và Lào (27,6 điểm), bà Joyce Chau dẫn chứng.
“Ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, tình trạng tín dụng đen vẫn diễn ra nhiều với công nhân; công nhân vẫn thường xuyên phải tăng ca; tính kỷ luật của lao động; thiếu cơ chế đối thoại nội bộ… đang là rào cản trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Trong khi, quản lý lao động có trách nhiệm xã hội đặt nhân sự làm trọng tâm, có cách thức đo lường công việc rõ ràng; có chương trình đào tạo cho nhân viên. Vấn đề an toàn lao động, sức khoẻ của người lao động, kỹ năng làm việc, cải thiện môi trường làm việc rất quan trọng. Người lao động cần được thông tin một cách rõ ràng”, bà Clemence Aron, giám đốc dự án CCIFV.
Vân Anh – Hiệp Bích (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này