08:42 - 27/05/2019
Chuyện nhà giàu cũng… khóc
Nhiều doanh nghiệp bỏ ra hàng triêu đô la đầu tư số hoá, nhưng chưa khai thác hết dữ liệu do đang thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia về kiến trúc và phân tích dữ liệu.
Tiếp người viết tại một quán cà phê trong siêu thị, anh giám đốc marketing đưa tay chỉ về các gian hàng đang đông khách: mỗi ngày một siêu thị của chúng tôi đón khoảng hơn 3.000 khách hàng đến mua sắm, hơn 70% số đó có giao dịch thẻ thành viên, nghĩa là chúng tôi có đầy đủ dữ liệu người mua hàng, độ sâu đến từng sản phẩm theo từng thời điểm. Tuy nhiên, đã ba năm trôi qua kể từ ngày lên kế hoạch khai thác “mỏ vàng” này để phục vụ cho các dự án tiếp thị và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nhưng mới chỉ đi được 30% so với kỳ vọng. Anh cũng thẳng thắn chia sẻ, số tiền bỏ ra ngót nghét cả triệu đô la nhưng kết quả mang lại chưa nhiều. Từ lãnh đạo đến các cấp thừa hành đều quyết tâm làm, ngân sách chưa bao giờ là vấn đề, nhưng những gì có được vẫn còn rất nhỏ bé.
Anh Thanh Ngô, chuyên gia tư vấn tiếp thị số (digital marketing) khu vực Đông Nam Á, cũng cho chúng tôi biết: có đến 7/10 doanh nghiêp lớn khi triển khai big data trong quá trình chuyển đổi số, đang gặp vấn đề lớn. Họ loay hoay không biết làm thế nào dù sống trên “kho vàng dữ liệu” như nhà bán lẻ này.Đây gọi là câu chuyện “người giàu cũng khóc” đúng nghĩa.
Vì sao lại có “nghịch lý” như vậy?
Thứ nhất, hiện nhiều doanh nghiệp đang thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia về kiến trúc và phân tích dữ liệu. Khái niệm chuyên gia được đề cập ở đây không phải là chuyên gia IT thuần tuý, vì họ chỉ giúp được những vấn đề mang tính kỹ thuật. Trong trường hợp này, phải là những người am hiểu sâu sắc về thực tế kinh doanh nữa. Theo vị giám đốc marketing trên chia sẻ, mặc dầu có đội ngũ IT hùng hậu, nhưng lại không tìm được chuyên gia vừa hiểu về marketing, bán hàng, và có thể kết nối với đội ngũ này để đưa ra yêu cầu phù hợp và chi tiết, để làm sao cấu trúc hoá và phân tích nguồn dữ liệu khổng lồ. Theo anh Thanh Ngô, không chỉ tại Việt Nam mà nhiều nước Đông Nam Á khác, trong xu hướng chuyển đổi số, loại chuyên gia này đang là những người được săn đón nhiều nhất. “Hồ sơ” của họ phải là những người từng trải qua vị trí quản lý marketing, bán hàng và phải am hiểu sâu về kiến thức số hoá doanh nghiệp, dữ liệu lớn… Với những doanh nghiệp có quy trình tự đào tạo, thì phải mất 2 – 3 năm mới ra một chuyên gia như vậy. Chưa kể, trong quá trình đó phải cho họ trải nghiệm các dự án thực tế, có thử và sai.
Một doanh nghiệp hàng đầu trong ngành tiêu dùng nhanh từng chia sẻ với Thế Giới Hội Nhập là: loại nhân viên này mới chính là mỏ vàng thật sự trong kỷ nguyên 4.0, phải làm mọi cách mà chiêu dụ, giữ người. Vì đây chính là trái tim của chuyển đổi số.
Thứ hai, năng lực chuyển hoá dữ liệu thành các hành động cụ thể trong doanh nghiệp. Hiển nhiên, mỗi doanh nghiệp, dù là ở nhóm hàng đầu, hiện nay vẫn hoạt động theo những quy trình đã có từ trước, từ cấp chiến lược đến vận hành. Chuyển đổi số sẽ được đưa vào sau tại nhiều khâu của quá trình này. Câu hỏi đặt ra chính là doanh nghiệp có dữ liệu lớn, có chuyên gia phân tích giỏi rồi, thì làm thế nào hệ thống hiện tại có thể “hấp thu” được những kế hoạch mới, vừa có được từ việc khai thác dữ liệu lớn đó. Không khó để lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra quyết sách chuyển đổi số, nhưng rào cản chính là làm sao hàng trăm con người chấp nhận và đưa nó vào công việc hàng ngày. Sự “chấp nhận” ở đây không chỉ về mặt tư duy, mà cả về kiến thức, kỹ năng. Phần lớn trong 7/10 doanh nghiệp trên mặc dầu đa số nhân viên đều hiểu lợi ích của chuyển đổi số, tuy nhiên rào cản về kiến thức và kỹ năng mới là vấn đề chính. Thực tế, ở những doanh nghiệp thành công đều có một mẫu số chung là khâu quản trị sự thay đổi (change management) rất hiệu quả. Họ thường phải thiết lập một đội ngũ chuyên trách, liên phòng ban, được dẫn dắt bởi các đại diện cấp cao, từ ban lãnh đạo chuyên lo về quản trị sự thay đổi. Cũng theo anh Thanh Ngô, một chương trình quản trị sự thay đổi số có thể phải diễn ra tính bằng đơn vị năm, trong đó, quan trọng nhất là quá trình huấn luyện và đào tạo từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Không làm tốt việc này, tự động chuyển đổi số trở thành gánh nặng, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh: cái mới ì ạch, cái cũ nửa vời. Mà doanh nghiệp càng lớn, quá trình này càng khó, và mất nhiều thời gian.
Thứ ba, sự đồng bộ về các giải pháp trong chuyển đổi số. Khi phân tích tại sao nhà bán lẻ trên tốn hơn cả triệu đô nhưng không thành công, chúng tôi thấy rõ các giải pháp số họ đưa ra bên cạnh các khó khăn nội tại của doanh nghiệp thì có một lý do khác, chính là chưa phù hợp với thực tế và yêu cầu từ đối tác. Trong chuỗi giá trị của mình, họ tương tác với các nhà cung cấp đầu vào và khách hàng ở đầu ra. Hệ sinh thái giải pháp số cấu thành từ cả hai thành phần này. Trong trường hợp này nhà bán lẻ có thể nói là đã “đi trước thời đại” khi cung cấp một vài giải pháp khá phức tạp, phù hợp với các thị trường đã phát triển, trong khi tại Việt Nam mới chỉ là bước đầu, nên đã gặp thất bại khi triển khai. Thực tế cho thấy, chi phí để đưa ra một giải pháp số là rất lớn, cả về mặt tài chính lẫn chi phí cơ hội, cho nên, doanh nghiệp phải đánh giá được khả năng hấp thụ và cùng vận hành của đối tác và mức độ chấp nhận của khách hàng.
Ba câu chuyện “nhà giàu” ứng dụng số trên đây, có thể gặp phải tại nhiều doanh nghiệp khác. Để giải quyết được nó đòi hỏi sự quyết đoán và kiên trì từ cấp lãnh đạo đến đội ngũ vận hành. Tương đối hiếm các trường hợp khi thực hiện chuyển đổi số mà có thể thành công được ngay, điểm chung chính là đối mặt và xử lý ba vấn đề trên một cách đồng bộ.
Phan Tường (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này