09:33 - 12/03/2022
Xung đột Nga – Ukraine nhìn từ 3 thị trường hàng hóa lớn và cơ hội cho DN Việt
GDP Nga chỉ bằng 1,5% nền kinh tế toàn cầu, nhưng Nga chiếm thị phần khá lớn trong thị trường một số mặt hàng quan trọng như: dầu khí, ngũ cốc, khoáng sản chiến lược. Việc cấm vận sẽ tạo ra sự khan hiếm và đẩy cao giá các mặt hàng này qua đó tác động tiêu cực lên nền kinh tế thế giới.
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội Quốc gia Anh (NIESR), xung đột Nga – Ukraine sẽ làm GDP toàn cầu giảm 1%, và tăng lạm phát thêm 3% trong năm nay. Nếu phương Tây cấm vận việc xuất khẩu dầu khí của Nga, tác động tiêu cực sẽ còn lớn hơn nhiều. Nói chung, kinh tế thế giới sẽ rơi vào tình trạng giảm phát, tạo khó khăn cho sự kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thị trường dầu khí
Nga sản xuất 11,3 triệu thùng dầu mỗi ngày—trong đó có 10 triệu thùng/ngày dầu thô; đứng thứ ba trên thế giới sau Mỹ (17,6 triệu thùng/ngày) và Saudi Arabia (12 triệu thùng/ngày). Tuy nhiên, Nga xuất khẩu khoảng 7,8 triệu thùng/ngày—trong đó có khoảng 5 triệu thùng/ngày là dầu thô, đứng đầu thế giới. Nga cũng sản xuất 638 tỷ mét khối/năm khí đốt—đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ; và xuất khẩu khoảng 200 tỷ mét khối mỗi năm.
Trước khi Nga tấn công Ukraine, thị trường dầu và khí thế giới đã mất cân bằng vì mức cầu tăng từ đầu năm 2022 khi kinh tế bắt đầu hồi phục trong khi OPEC chậm trễ trong việc tăng sản xuất để đảo ngược quyết định cắt định mức sản lượng 10 triệu thùng/ngày trong năm 2020 khi Covid đang hoành hành – dự báo OPEC sẽ sản xuất dưới 30 triệu thùng/ngày trong năm nay, thấp hơn sản lượng trong những năm trước Covid.
Khi lượng xuất khẩu dầu từ Nga bị cắt giảm vì cấm vận tài chính và tình hình bất ổn (tuy phương Tây chưa trực tiếp cấm vận dầu khí của Nga), giá dầu đã nhảy vọt từ 94 đôla/thùng lên trên 125 đôla/thùng. Nếu phương Tây trực tiếp cấm vận dầu khí Nga (Mỹ và châu Âu đang thảo luận về biện pháp này), thì thị trường thế giới sẽ giảm cung khoảng 5 triệu thùng/ngày từ Nga, khoảng 5% tổng cầu toàn thế giới như hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, rất khó có thể bù đắp sự thiếu hụt này. OPEC hiện có năng suất dư thừa khoảng 4 triệu thùng/ngày, tập trung ở Saudi Arabia và một phần ở United Arab Emirates (UAE). Tuy nhiên hai nước Trung Đông này (là đầu tàu của OPEC) chỉ sử dụng năng suất dư thừa của mình khi tình hình rất căng thẳng trên thị trường dầu và chưa bao giờ dùng hết năng suất dư thừa đó. Hơn nữa hai nước này cũng không muốn tăng sản lượng dầu thô nhanh và nhiều như Mỹ và châu Âu yêu cầu vì không muốn tỏ thái độ bất thân thiện với Nga. Iran cũng có khả năng tăng xuất khẩu khoảng 500.000 thùng/ngày nếu hiệp ước dừng phát triển vũ khí hạt nhân được thoả thuận—nhưng điều này không có gì chắc chắn.
Mỹ sản xuất khoảng 11,5 triệu thùng/ngày dầu thô và có thể tăng sản xuất nhưng phải đến năm 2023 mới lên mức 12,6 triệu thùng/ngày. Trước mắt, vì mức cầu trong nước tăng nên Mỹ sẽ tiếp tục nhập ròng dầu thô – khoảng 4 triệu thùng/ngày; trong khi xuất ròng sản phẩm dầu cũng khoảng 4 triệu thùng/ngày – nên không giúp được gì nhiều trong tình trạng mất cân bằng trên thị trường thế giới. Nói chung, nếu biện pháp cấm vận dầu khí Nga được ban hành, giá dầu có khả năng tăng lên 150-200 đôla/thùng.
Giá dầu tăng cao có ảnh hưởng phức tạp đối với VN. VN xuất dầu thô, nên tăng giá thì có lợi cho Petrovietnam; nhưng lợi ích này ngày càng giảm đi. Lượng dầu thô xuất khẩu từ VN có khuynh hướng giảm trong 10 năm qua—từ 267 ngàn thùng/ngày trong năm 2009 xuống 113 ngàn thùng/ngày trong tháng 12/2020–dưới trung bình trong thời gian 40 năm qua là 146 ngàn thùng/ngày. Trong khi đó VN phải nhập ròng sản phẩm dầu như dầu lọc. Nói chung, giá dầu tăng trên thị trường thế giới sẽ kéo giá nhiên liệu ở VN tăng lên, làm tăng chí phí sản xuất và phân phối nhiều mặt hàng của các doanh nghiệp (DN) và chí phí tiêu dùng của người dân.
Nói chung, đối với VN, nếu giá nhiên liệu tăng 10% thì GDP giảm 0,5% và lạm phát tăng 0,4%. Bộ Tài Chính VN đã đề xuất với chính phủ xin giảm 25% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu và mỡ nhờn để bớt sức ép tăng giá và hỗ trợ sức mua của giới tiêu dùng—nhưng khó có thể khắc phục hoàn toàn tác động tăng giá trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, VN sẽ gặp vấn đề khó khăn nếu Mỹ/châu Âu cấm vận các doanh nghiệp dầu khí của Nga. Từ trước tới nay, CP Mỹ đã nhiều lần mở rộng phạm vi cấm vận lên các cá nhân hay doanh nghiệp ở nước thứ ba (không phải là Mỹ hay nước bị cấm vận)—thực chất là áp dụng luật lệ Mỹ ngoài lãnh thổ của Mỹ (extraterritoriality). Luật CAATSA 2017 (Countering America’s Adversaries Through Sanctions Act) đã cung cấp cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng cấm vận ngoài lãnh thổ Mỹ. VN liên doanh với Nga trong Vietsovpetro (Petrovietnam 51%— Zarubezhneft 49%) nên có thể bị cáo buộc là tiếp tục giao dịch với doanh nghiệp Nga bị cấm vận; như thế là vi phạm luật cấm vận của Mỹ. VN vì thế cần tham khảo tư vấn pháp lý chuyên môn ở Mỹ để tìm hiểu và chuẩn bị đối phó với tình huống này.
Thị trường ngũ cốc, nông phẩm
Nga là nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, Ukraine đứng thứ 5—hai nước cộng lại cung cấp hơn 30% cho thị trường lúa mì thế giới. Xung đột và cấm vận đã làm giá lúa mì tăng 50% trong tháng qua và đẩy giá các loại ngũ cốc và nông phẩm khác. Nếu tình hình chiến sự Ukraine kéo dài, mức cung lúa mì cho thị trường thế giới có thể giảm 30% – tạo ra khủng hoảng lương thực, giá nông phẩm tăng cao thêm và nạn đói ở một số vùng.
VN xuất khẩu gạo trên 6,5 triệu tấn/năm, đứng thứ hai trên thế giới sau Ấn Độ (xuất 18,7 triệu tấn/năm). Vì thế giá gạo và nông phẩm tăng thì có lợi cho VN—chủ yếu là các doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo và nông phẩm; nhưng cũng tăng giá lượng thực cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, thời điểm này cũng là cơ hội rất tốt để VN có thể tăng cường xuất khẩu gạo và các loại nông phẩm lương thực sang thị trường EU—có nhu cầu đang tăng, mỗi năm nhập khoảng 160 tỷ đôla lương thực. Vì cấm vận và vì người dân tự động tẩy chay hàng hoá Nga, EU đang cần có nguồn cung cấp ngũ cốc và nông phẩm thay thế. VN nên tập trung nâng cao thị phần của mình trong thị trường EU—trước mắt là sử dụng hết hạn ngạch xuất lúa gạo 80.000 tấn/năm với suất thuế quan 0% theo Hiệp Định Tự Do Thương Mại EU-VN (EVFTA)—năm 2021 VN chỉ mới xuất 60.000 tấn/năm. Đặc biệt nên phát triển các loại gạo thơm cấp cao, nhiều giá trị đang được người tiêu thụ châu Âu ưa chuộng.
Thị trường khoáng sản chiến lược
Nga chiếm 49% thị trường xuất khẩu nickel (dùng chế tạo các loại bình điện cho xe ôtô) trên thế giới; 42% thị trường xuất khẩu palladium (dùng để chế tạo linh kiện chuyển đổi xúc tác analytic converter dùng trong xe ô tô) và 26% thị trường nhôm. Ngoài ra Ukraine chiếm 70% thị trường xuất khẩu khí neon (cần thiết trong tiến trình chế tạo linh kiện bán dẫn semiconductors).
Trong thời gian qua, giá các loại khoáng sản này tăng hơn 30% do tình trạng thiếu hụt trên thị trường. Nếu kéo dài, sự thiếu hụt này sẽ làm chậm trễ dây chuyền sản xuất linh kiện bán dẫn, ảnh hưởng đến việc sản xuất hàng loạt các loại hàng máy móc và tiêu dùng cần chip điện tử. Các công ty ở VN cần những loại hàng trung gian này cũng sẽ gặp trở ngại và ngưng trệ trong tiến trình sản xuất.
Tóm lại, xung đột Nga-Ukraine và biện pháp cấm vận của phương Tây đã gây ra thiếu hụt và nâng giá nhiều loại hàng như dầu khí, ngũ cốc và một số khoáng sản chiến lược. Ngoài ra, việc giao dịch với các doanh nghiệp Nga—hoặc trực tiếp bị cấm vận hoặc gián tiếp vì khó khăn trong việc chỉ trả thanh toán sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều. Tình trạng này sẽ gây thiếu hụt, chậm trễ và tăng chí phí trong dây chuyền sản xuất nhiều ngành công nghiệp. Nói chung, kinh tế sẽ bị đình trệ, lạm phát tăng cao gây ra tình trạng giảm phát làm môi trường kinh doanh thêm khó khăn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên VN có cơ hội tốt để có thể tăng cường xâm nhập thị trường EU, chủ yếu là trong lãnh vực nông phẩm và lương thực để thay thế hàng từ Nga và Ukraine.
Điều quan trọng là chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp và bản thân doanh nghiệp cần tìm hiểu về luật cấm vận của Mỹ và tiến hành thảo luận với đối tác Mỹ để tránh bị chế tài vì bị cáo buộc vi phạm các biện pháp cấm vận đối với Nga.
Trần Quốc Hùng* (theo TGHN)
————–
(*) TS Trần Quốc Hùng hiện là CEO của Viện Tài chính Quốc tế IIF ở Washington DC. Ông từng công tác sáu năm tại IMF với tư cách Phó giám đốc, Ban Thị trường Vốn và Tiền tệ.
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này