10:37 - 20/11/2016
Thanh âm Việt Nam mở lòng với thế giới
Mấy dòng ghi lại cảm xúc sau buổi biểu diễn nhạc cụ dân tộc Việt Nam của cô Ngọc Bích và cô Vân Ánh.
Bài viết là ý kiến chủ quan của tác giả là một du học sinh ở Vancouver (Canada) – người tự nhận không có chuyên môn về nghiên cứu lịch sử văn hoá, chỉ có tấm lòng háo hức và yêu mến âm nhạc truyền thống Việt.
Chương trình biểu diễn nhạc cụ dân tộc Việt Nam do hai nghệ sĩ Ngọc Bích (đàn bầu) và Vân Ánh (đàn tranh) đã diễn ra vào tháng 11.
Ngoài đàn tranh, đàn bầu, hai cô còn mang đến cho khán giả đàn t’rưng, đàn môi, koni… cùng phối hợp với dàn nhạc VICO (Vancouver Inter-cultural Orchesta); có violin, có cello, có flute, có cả barbat của Ba Tư, tam thập lục: Đông – Tây hội ngộ.
Tôi gọi là: âm nhạc Việt ở Canada. Chương trình gồm mười bản nhạc có lúc là dân ca Việt Nam, có lúc là nhạc mới do cô Vân Ánh viết hoặc các nhạc sĩ của VICO, có lúc là nhạc truyền thống được cách tân.
Ở xứ đa văn hoá, âm nhạc Việt Nam đã có sự giao lưu – học hỏi rồi điều chỉnh cho phù hợp; để rồi sau đó các tác phẩm âm nhạc đa văn hoá ra đời, hiện đại mà vẫn có “đất” cho các nhạc cụ truyền thống trình diễn.
Nhìn nhạc cụ Việt Nam hoà chung với nhau trên sân khấu, có nhạc cụ Tây phương, nhạc cụ Trung Quốc, nhạc cụ Ba Tư… mà tôi chỉ nghĩ đến chữ “nhường nhịn”.
Mỗi nhạc cụ nhường nhau một chút, mở lòng với nhau một chút để đóng góp cho khán giả. Phải chăng đó chính là sự “cao cả” của văn hoá? Hay âm nhạc tự bản thân nó là một ngôn ngữ vũ trụ?
Có một lần tôi được nhạc sĩ dặn dò là hãy tập nghe nhạc cổ điển Tây phương, hãy học piano vì đó mới là “tinh hoa”. Hôm nay lúc xem biểu diễn chỉ nghĩ trong đầu: hai bên hoà hợp với nhau như thế này thì thế nào mới là “tinh hoa”, thế nào là “bình dân”?
Dàn nhạc Tây phương cứ như là gió là mây là mưa chuyển động mãnh liệt, thanh âm của nhạc cụ Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng như là dải lụa quấn quít với gió; như là khói biếc toả trên bầu trời…
Vậy nên tôi cho rằng không nên phân biệt hay xếp hạng làm gì cho nhọc lòng và tủi thân. Mỗi nền văn hoá đều có cái hay để cống hiến cho cuộc đời.
Cô Vân Ánh và cô Ngọc Bích từ nền tảng nhạc truyền thống Việt Nam đã có những sáng tạo đến bất ngờ trên dân ca hay kỹ thuật chơi, thậm chí là cải tiến nhạc cụ.
Đàn bầu tạo ra tiếng gió, tiếng sấm gào thét thoắt cái lại nỉ non da diết, thoắt cái lại mỏng manh khi được kéo bằng cần violin.
Đàn tranh lúc lanh lảnh khi dạt dào, khi thì mơ màng lúc thì tỉ tê trên từng ngón tay của người nghệ sĩ.
Con đường của âm nhạc Việt Nam có nhiều lối đi, người chọn thuần cổ truyền, người chọn hướng cách tân ra với thế giới, người chọn hướng hiện đại, dù đi đâu hay ở đâu vẫn đang làm giàu cho vốn dân tộc.
Lúc cô Vân Ánh chơi bài Huyền thoại kể về sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ ngày xưa, tôi nhắm mắt cảm nhận được vị mặn của muối, mùi của đại ngàn cỏ cây; có lúc tưởng như sau lưng cô là rồng là tiên yểm trợ vậy. Chỉ biết rùng mình mà thôi.
Khán giả bên dưới, bất kể người Việt hay người nước ngoài, lúc xem biểu diễn đều xuýt xoa khen các nghệ sĩ biểu diễn quá tuyệt vời. Sau lưng tôi, mấy đứa trẻ gốc Việt nói với nhau bằng tiếng Anh rằng nghe hay quá, thích nhạc Việt Nam quá.
Tự dưng tôi nghĩ đến những lời than vãn của người lớn về thế hệ trẻ chúng tôi không quan tâm đến văn hoá truyền thống dân tộc.
Phải chăng văn hoá không nên là sự “đương nhiên” phải yêu thích mà chỉ nên là sự lựa chọn? Như cô Ngọc Bích, như cô Vân Ánh cứ chơi nhạc thật hay, chạm đến trái tim khán giả thì tự khắc sẽ yêu thích mà không cần phải miễn cưỡng lấy “dân tộc” ra khiến người ta phải yêu?
Nói đi cũng phải nói lại, ở Việt Nam hiện tại công cuộc “làm văn hoá” đã đủ hấp dẫn chưa, có khiến người trẻ thích thú chưa? Câu hỏi đó trăn trở bao lâu nay.
Tự dưng nhìn thấy các cô người Việt diện áo dài, có bà đội cả mấn chỉnh tề, các chú các bác diện vest với mũ nồi đi xem biểu diễn mà mình thấy vui vui trong lòng. Dù rằng chiếc áo không phải là tất cả của “văn hoá” nhưng nó là biểu hiện của sự tôn nghiêm. Chừng nào còn tôn nghiêm thì chừng đó vẫn còn hy vọng cho sự sống của “văn hoá”.
Đã nói nhiều lần nhưng vẫn muốn nhắc lại với bản thân rằng văn hoá là một thực thể sống động, liên tục giao lưu và biến đổi chứ không ở yên một chỗ hay hoàn toàn thuộc về một dân tộc nào.
Ví như hôm nay thanh âm của Việt Nam đã có chút cách tân để hoà tấu cùng các nhạc cụ khác, các nhạc cụ khác cũng điều chỉnh để nâng đỡ nhạc cụ Việt Nam; mỗi phần “một chút” đó đã trao đổi qua lại cho nhau, văn hoá của mỗi bên giàu lên “một chút”.
Kỳ thực, “văn hoá” cũng chỉ là cái cớ để mở lòng với nhau, ngồi xuống chơi với nhau bản nhạc, trò chuyện cùng nhau và thương nhau mà thôi.
Lục Phạm Quỳnh Nhi
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này