
10:00 - 12/02/2018
Người gây ô nhiễm phải trả tiền
Việc đánh thuế cao các loại hình sản xuất gây ô nhiễm và phát thải khí nhà kính cao như một dạng thuế môi trường (dùng để xử lý ô nhiễm) và thuế tài nguyên (đánh vào mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên).

Những nhà máy xả thải gây ô nhiễm như nhà máy trong ảnh cần được chiếu cố bởi các sắc thuế đặc biệt theo quan hệ người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Sự phát thải khí nhà kính tiềm năng có thể trực tiếp và gián tiếp từ các khâu khai thác, vận chuyển, chế biến, phân phối và tiêu thụ.
Như một phẩn chủ yếu trong nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” đã được đưa vào một như một định chế pháp lý quốc tế từ sau hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio de Janeiro và hội nghị Rio năm 1992 (tiếng Bồ Đào Nha: ECO92) do Liên hiệp quốc chủ trì, mang nội hàm là một chính sách sử dụng biện pháp kinh tế – tài chính để tác động đến các hành vi gây ô nhiễm của chủ thể tương xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu tới môi trường hoặc hệ sinh thái tự nhiên, để tạo ra những giải pháp có lợi cho môi trường sống và cho toàn xã hội.
Các loại hình sản xuất gây ô nhiễm như tạo ra rác thải rắn, nước thải và khí thải được đánh giá theo khối lượng chất ô nhiễm đặc trưng trên mỗi đơn vị sản phẩm. Ví dụ ngành luyện kim tạo ra nhiều chất thải: để có 1 tấn thép thô ra lò, nhà máy luyện thép bằng công nghệ lò cao sẽ phải thải ra hơn 585kg chất thải rắn (chủ yếu là xỉ thép), cần đến hàng chục m3 nước để làm nguội, trong đó có khoảng 3m3 nước thải rất độc hại và chừng 2,3 tấn khí độc dạng CO2 và các loại khí CO, SO2, NOx, bụi và bụi kim loại… Mỗi quốc gia sẽ đặt ra các tiêu chí ô nhiễm chủ yếu để định mức thuế hoặc phí môi trường.
Riêng thuế phát thải khí nhà kính là một sắc thuế được quy về lượng CO2 tương đương (tính theo tấn khí thải). Do vậy loại thuế này có tên phổ biến là thuế carbon. Mục tiêu của việc đánh thuế carbon là để thúc đẩy các doanh nghiệp chú ý đến việc giảm mức phát thải khí nhà kính. Hiện nay, các hoạt động tiêu thụ nhiều nhiên liệu hoá thạch như việc chưng cất, đốt các loại dầu, xăng, khí hoá lỏng, methanol, naphtha, butan, than đá, than bùn,… đều là đối tượng chịu thuế carbon. Tuỳ theo chủ trương các chính phủ dựa vào điều kiện kinh tế – môi trường và xã hội của riêng nước của họ, mức thuế carbon rất khác biệt. Trên thế giới đã hình thành một thị trường tài chính carbon, có thể mua bán theo chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính. Chứng chỉ này (Certified Emission Reductions – CERs) được ban điều hành theo Cơ chế Phát triển sạch (Clean Development Mechanism Executive Board – CDM EB) phát hành, được xem như một loại hình hàng hoá có thể mua bán được, tương tự một sàn giao dịch chứng khoán. Đến cuối năm 2017, đã có 45 quốc gia trên thế giới áp dụng sắc thuế carbon, và dự báo trong năm 2018 sẽ có thêm Nam Phi và bang Massachusetts tham gia Kế hoạch Giao dịch Phát thải (Emission Trading Scheme – ETS).
Theo báo cáo “State and Trends of Carbon Pricing” của ngân hàng Thế giới công bố như một tài liệu chính thức phổ biến trong hội nghị các bên (COP) lần thứ 23, liên quan các vấn đề và thoả thuận về biến đổi khí hậu được tổ chức ở Bonn (CHLB Đức) vào tháng 11/2017 vừa qua, thì trong số các quốc gia mới thử nghiệm đánh loại thuế carbon này như ở Mexico, Ba Lan, Ukraine mức thuế carbon là trên dưới 1 USD/tấn CO2, thì ở Thuỵ Điển mức thuế này trong năm 2017 lên đến 140 USD/tấn CO2 (hình 2). Các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Phần Lan, Na Uy đã áp dụng sắc thuế này rất sớm, từ đầu thập niên 1990. Chính nhờ vậy mà người dân các nước này tìm cách hạn chế sử dụng xe hơi, xe đạp trở nên phổ biến trên đường phố.

Mức phát thải khí nhà kính, theo IPCC (2014) dẫn đầu vẫn là các ngành sản xuất năng lượng, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông và xây dựng.
Việc sử dụng thuế carbon sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp và người tiêu dùng chủ động thay đổi công nghệ cũ gây nhiều ô nhiễm và chuyển đổi theo các quy trình, phát minh mới tiết kiệm điện và sử dụng năng lượng sạch, rất ít phát thải như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sóng biển… Điều này cũng giúp giảm các chi phí xử lý ô nhiễm, giảm chi phí y tế cho khám chữa bệnh cho cộng đồng và các chi phí xã hội khác. Thuế carbon cũng sẽ là một nguồn thu mới của quốc gia, chính phủ sẽ sử dụng nguồn thuế này cho việc nâng cấp môi trường như trồng rừng, xử lý ô nhiễm đô thị và công nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam là quốc gia được ngân hàng Thế giới (2017) nhận định là đang trong quá trình xem xét sử dụng thuế carbon. Một số chính sách liên quan đã được áp dụng trong ngành vận tải: duy trì đánh thuế tiêu thụ đặc biệt cao cho việc nhập khẩu, sử dụng ô tô, tăng thuế xăng dầu, xem xét loại bỏ các dòng xe cũ, gây ô nhiễm khói thải… Tuy nhiên, các chính sách giảm thiểu ô nhiễm không khí chưa được chú trọng tới mức, quy hoạch phát triển các nhà máy điện than trong tương lai vẫn chiếm tỷ lệ cao và chưa có gì thay đổi lớn, việc khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo chưa có những đột phá lớn, giá mua điện từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời còn thấp. Tăng thuế carbon cũng là cơ sở để giảm các sắc thuế khác cho doanh nghiệp như thuế thu nhập. Dù có nhiều khó khăn trước mắt, về lâu dài việc áp dụng thuế carbon vẫn có lợi hơn cho sự phát triển bền vững quốc gia nếu xem xét đầy đủ các yếu tố kinh tế, môi trường, xã hội và cả chính trị.
Lê Anh Tuấn
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này