
09:08 - 03/08/2019
Hạ lưu Mekong: Mất nguồn nước, sinh kế lung lay
Mực nước ở vùng hạ lưu sông Mekong thấp nhất trong 100 năm qua, ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp, sinh kế của người dân.

Vào thời điểm này trong các năm trước sông Mekong thường dâng lên đều đặn với những cơn mưa theo mùa, mang lại cho ngư dân những đàn cá lớn như phần thưởng của thiên nhiên. Nhưng giờ thì khác, nước sông ở hạ nguồn đã giảm ở mức thấp kỷ lục và ngư dân chỉ còn những con cá nhỏ. Ảnh: Khánh An.
Việc tìm kiếm những mô hình thích nghi để giữ trụ cột kinh tế rất quan trọng là vấn đề cấp bách, ThS Kỷ Quang Vinh, nguyên chánh văn phòng công tác Biến đổi khí hậu TP Cần Thơ, nói như vậy.
Các đập thượng nguồn càng giữ nước càng làm cạn kiệt nguồn nước, vốn đảm bảo tính sống còn cho một trong những vựa lúa quan trọng nhất Đông Nam Á.
“Hiện nay, Trung Quốc hoàn toàn kiểm soát nguồn nước”, ông Premrudee Deoruong, thuộc một tổ chức môi trường chuyên giám sát đầu tư đập ở Lào, cho biết. “Từ giờ trở đi, mối quan tâm là nước bị kiểm soát bởi những người xây đập”. Nhà máy thuỷ điện Trung Quốc Jing Jinghong cho biết vào đầu tháng 7, họ đã giảm hơn một nửa lưu lượng để phục vụ ổn định lưới điện.
Khó có nước về
Theo ThS Vinh, từ thượng nguồn của lưu vực hạ lưu sông Mekong ở huyện Chiang Saen, tỉnh Chiang Rai, Thái Lan đến Luông Pha Băng và Viêng Chăn, Lào, và xa hơn đến Nong Khai (Thái Lan) và Neak Luong, Campuchia, mực nước đều thấp hơn mức đo được năm 1992, năm có lưu lượng thấp nhất được ghi nhận.
“Nhìn đồ thị thuỷ văn, tôi tự hỏi chuyện gì đang xảy ra. Mọi năm tầm tháng 6 tức sau mùng 5.5 âm lịch, con nước đã dâng từ từ cho tới đỉnh lũ là tháng 9, tháng 10 nước tràn đồng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thế nhưng, năm nay đến giờ này, con nước thậm chí có xu hướng đi xuống”, ThS Vinh nói với báo chí.
Thông thường, theo chuyên gia này, nước từ thượng nguồn Mekong đổ về sẽ theo nhánh Tonle Sap vào Biển Hồ, làm cho diện tích mặt nước Biển Hồ tăng lên. Hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á này chính là “túi nước” khổng lồ trữ nước vào mùa mưa và nhả nước điều tiết cho hạ nguồn ĐBSCL. Tuy nhiên, năm nay, chính túi nước này cũng đang bị suy giảm nghiêm trọng. Nhiều khu vực làng nổi của người dân rơi vào tình trạng mắc cạn vì nước xuống thấp. Và với tình hình này, năm nay ĐBSCL khó có nước về.
Điều chỉnh mô hình sinh kế?
Người dân hạ lưu sông Mekong hiểu rằng nguồn nước – tài sản vô giá của tạo hoá cho con người – không chỉ suy kiệt nhìn thấy từ dòng chảy, mà chất lượng rất tệ, mất mát từng ngày, giá trị sống của hàng chục triệu người vùi vào những hỗn mang, rối rắm, lo toan!
Ông Nguyễn Văn Ri, ở ấp Cồn Cù, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, nói: những năm gần đây nước ngọt cạn kiệt, nước mặn dâng, xói lở dữ lắm. Hàng dương ven biển sóng đánh tơi tả, nước biển tràn vào ngập hoa màu. Người dân hạ lưu phải chọn lựa phương án chuyển đổi, bố trí lại các đối tượng nuôi phù hợp với điều kiện xâm nhập mặn. Điều đó không đơn giản chút nào! Nhiều người dân không biết phải làm gì khi nghe ý tưởng dịch chuyển mùa vụ nuôi trồng, rút ngắn thời gian một vụ nuôi tôm sú (có thời gian nuôi 4 – 5 tháng) sang nuôi tôm chân trắng (có thời gian nuôi khoảng 3 tháng), nhưng thị trường nào, ai mua?
Bà Nguyễn Thị Điện, ấp Cồn Cù, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, nói vùng nuôi công nghiệp nhiều người thất bại để ao chứa nước tù đọng. Có nơi đất nhiễm phèn, nước chuyển sang màu xanh, rác rến từ ngoài biển bị sóng đánh vào bờ. Hiện nay, chưa có chương trình nào xử lý tình trạng này.
“Xâm nhập mặn tác động đến các mô hình nuôi thuỷ sản do thiếu nguồn nước ngọt, vùng giáp biển mùa khô và sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của hệ thuỷ sinh vật trong tự nhiên”, TS Mai Viết Văn, khoa Thuỷ sản, trường ĐH Cần Thơ, lo ngại nói. Toàn ĐBSCL có 22 cửa sông, lạch và hơn 800.000ha bãi triều (70 – 80% là bãi triều cao). Chế độ thuỷ văn của ĐBSCL chịu ảnh hưởng của dòng chảy thượng lưu sông Mekong, và của thuỷ triều biển Đông và Tây, việc định hướng, quản lý, sử dụng nước phải phù hợp cho từng tiểu vùng sinh thái và cả vùng ĐBSCL.
Theo TS Văn, các mô hình nuôi nhuyễn thể (nuôi hàu, nuôi vẹm, nuôi nghêu, vộp, sò huyết, ốc len…) dựa vào nguồn giống tự nhiên và nhân tạo ở vùng ven biển ĐBSCL, mô hình nuôi kết hợp tôm – lúa ở vùng chuyển đổi, mô hình luân canh tôm, cá nước lợ vào mùa khô với trồng lúa vào mùa mưa, mô hình chuyên canh tôm, cá rô phi, cá bống, cá bớp ở vùng cửa sông, ven biển là cách thích ứng với điều kiện xâm nhập mặn.
Vấn đề quan trọng hơn, dù ngọt, lợ, mặn thì yêu cầu cơ bản là phải bảo đảm có nguồn nước sạch.
Khánh An – Ngọc Bích (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này