
22:19 - 27/05/2025
Tinh thần của ‘bộ tứ nghị quyết’
Tư duy xuyên suốt của cả bốn nghị quyết là coi khoa học công nghệ là nền tảng, năng suất là then chốt và kinh tế tư nhân là động lực. Mục tiêu xuyên suốt của “kỷ nguyên vươn mình” là sự thay đổi đột phá về tăng trưởng kinh tế để đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, và đây là mục tiêu bao trùm lớn nhất.
Sáng 24/5, Ban Chấp hành Hội DN HVNCLC, Ban chủ nhiệm CLB Doanh nghiệp dẫn đầu (LBC) và các thành viên nòng cốt của LBC đã có cuộc họp, thảo luận về hai nghị quyết trực tiếp liên quan đến doanh nghiệp là Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68. LBC đã ghi lại bài giới thiệu chung về tinh thần của bộ tứ nghị quyết và các rủi ro về chính sách mà doanh nghiệp cần lưu ý trong thời gian tới của Chuyên gia chính sách công TS Vũ Thành Tự Anh.
Một cuộc “đổi mới tư duy” toàn diện
Đầu tiên phải đặt bộ tứ nghị quyết (Nghị quyết 57-59-66 và 68) trong tổng thể chiến lược phát triển chung của Việt Nam. Mục tiêu xuyên suốt và bao trùm trong “kỷ nguyên vươn mình” là sự thay đổi đột phá về tăng trưởng kinh tế để đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, và đây là mục tiêu bao trùm lớn nhất.
Thách thức là chúng ta thực hiện mục tiêu này trong bối cảnh thế giới đang và sẽ tiếp tục biến động cực kỳ phức tạp và khó lường. Bối cảnh này rất khác so với giai đoạn “vươn mình” của những nước như Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) hay Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Nhìn ra thế giới, chúng ta thấy rất nhiều xung đột về kinh tế, thương mại, địa chính trị, quân sự; và cũng có cả những xung đột leo thang tiềm tàng. Tóm lại, bối cảnh thế giới diễn biến cực kỳ phức tạp, rất khó đoán định, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bên cạnh đó là những đột phá về công nghệ như trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, tự động hóa và robot thế hệ mới, công nghệ sinh học tổng hợp… đó là những lực, những bối cảnh hoàn toàn mới trong quá trình phát triển của những nước đi sau như Việt Nam hiện nay.
Ở bên trong, Việt Nam cũng đang trải qua những thay đổi sâu rộng với sự sắp đặt lại toàn bộ hệ thống hành chính, bao gồm việc sáp nhập các bộ ngành, sáp nhập các tỉnh thành, rồi bỏ chính quyền cấp quận – huyện, và tinh giản bộ máy. Một hệ quả trước mắt là hệ thống quản lý nhà nước bị xáo trộn và hơn 100.000 cán bộ công chức rời khỏi bộ máy. Đây là một nỗ lực rất lớn để giải quyết giải quyết tình trạng phân mảnh hay chia cắt về thể chế, vốn là một vấn đề có tính cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, được biểu hiện rõ nét qua việc thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ ngành, hay sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương. Tỉnh/thành nào cũng muốn có cảng biển, sân bay, có các dự án đầu tư lớn.
Vậy thì dựa vào những trụ cột nào để chúng ta thực hiện được mục tiêu đến 2045 trở thành nước có thu nhập cao? Vừa rồi Tổng bí thư và Thủ tướng đưa ra một loạt các chỉ dẫn về các ngành trụ cột. Thứ nhất là một số ngành công nghiệp quan trọng mới, nổi bật là công nghiệp bán dẫn. Bán dẫn bắt đầu nổi lên kể từ chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden, khi Việt Nam và Hoa Kỳ nâng tầm lên đối tác chiến lược toàn diện. Nhưng sau khi Tổng thống Trump trở lại nắm quyền, triển vọng phát triển công nghiệp bán dẫn của Việt Nam không còn sáng sủa như trước. Tương tự như thế với chuyển đổi xanh bởi vì Tổng thống Trump không quan tâm đến chuyển đổi xanh, đến biến đối khí hậu. Như vậy, Việt Nam rơi vào trạng thái khó xử, vì để xuất khẩu sang châu Âu thì không thể không tuân thủ các tiêu chuẩn xanh, nhưng đứng trên bình diện hợp tác và quan hệ với Mỹ thì phát triển xanh hay chuyển đổi năng lượng lại không còn quan trọng.
Lĩnh vực trụ cột thứ hai là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, là lĩnh vực mà dù có Trump hay không có Trump chúng ta vẫn phải làm. Đây thực sự là động cơ, là nền tảng vô cùng quan trọng với Việt Nam trong dài hạn. Rất tiếc trong giai đoạn vừa qua chúng ta chưa thành công trong việc phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thứ nhất, mặc dù đầu tư cho R&D của Việt Nam rất thấp (chưa tới 0,5% GDP) nhưng ngay cả khi ấy thì tiền cũng không được giải ngân hết và sử dụng một cách hiệu quả. Thứ hai là sự kết nối rất lỏng lẻo giữa khoa học công nghệ với hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng ta đã nói với nhau bao nhiêu lần là hợp tác hai nhà, ba nhà, rồi bốn nhà nhưng đến giờ chẳng có hợp tác nào đáng kể, các nhà vẫn mạnh ai nấy chạy. Thứ ba là hàm lượng về khoa học công nghệ của chúng ta trong các sản phẩm xuất khẩu là rất thấp, đồng thời giá trị gia tăng của các nhà cung ứng Việt Nam trong hàng xuất khẩu của các công ty công nghệ cao ở Việt Nam là rất thấp. Hay nói cách khác, Việt Nam có thể thành công trong việc tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu được phân loại là công nghệ cao nhưng giá trị gia tăng lại rất thấp. Đó vừa là bi kịch, vừa là nghịch lý mà không thể không tháo gỡ. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp startup Việt Nam phải ra nước ngoài để khởi nghiệp. Vốn mạo hiểm, vốn đầu tư cho các hoạt động này cũng chủ yếu huy động từ bên ngoài. Tóm lại, trong giai đoạn vừa qua, kết quả phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thấp hơn nhiều so với kỳ vọng, và chắc chắn là không đủ cho “kỷ nguyên vươn mình”.
Trụ cột tiếp theo là các cải cách về thế chế như TBT Tô Lâm nói là “nút thắt của nút thắt”. Một trụ cột quan trọng nữa là khu vực kinh tế tư nhân, được ghi trong hẳn một nghị quyết mà chúng ta sẽ quay lại sau.
Bên cạnh “bộ tứ nghị quyết”, cần có thêm nghị quyết về giáo dục đào tạo. Bởi vì ai sẽ là người đi thực hiện các chiến lược trọng đại này? Ai là người làm khoa học công nghệ, chuyển đổi số? Ai sẽ khởi nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân? Rõ ràng là con người với kiến thức, kỹ năng, trí tuệ và thái độ ở một trình độ cao hơn hẳn hiện nay. Tôi hy vọng trong giai đoạn tới “giáo dục – đào tạo” sẽ bổ sung thêm, trở thành trụ cột thứ năm trong “bộ ngũ nghị quyết” của thời đại mới.
Điều đáng mừng là chúng ta đang chứng kiến một cuộc “đổi mới tư duy” toàn diện. Tư duy mới, xuyên suốt của tất cả các nghị quyết này là coi khoa học công nghệ là nền tảng, năng suất là then chốt, và kinh tế tư nhân là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Thứ hai là đổi mới tư duy, chuyển từ quản lý sang phục vụ. Đấy là niềm mơ ước của người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều năm qua.
Thứ ba là từ tư duy bảo hộ sang cạnh tranh và cạnh tranh sáng tạo. Các nhà kinh tế học có thể bất đồng về hầu hết mọi thứ, song đều đồng ý với nhau rằng cạnh tranh là động lực cơ bản nhất của đổi mới, sáng tạo và phát triển.
Thứ tư là từ phân tán sang tập trung, từ phân tán, cục bộ sang đồng bộ và toàn diện. Trước kia các bộ-ngành, địa phương làm một cách phân tán thì bây giờ không thể tiếp tục như vậy được nữa.
Chủ trương, tầm nhìn là như vậy, nhưng một nút thắt chí tử của chúng ta nằm ở khâu thực thi. Để hài hòa giữa chủ trương của trung ương và quyền tự chủ của địa phương, tôi hy vọng sắp tới, những chính sách từ trung ương xuống địa phương đồng bộ và nhất quán, nhưng phải tạo cho địa phương một dư địa để có đủ không gian sáng tạo. Trong lĩnh vực quản trị quốc gia, chúng tôi gọi hệ thống này là “quản trị thích ứng” (adaptive governance), trong đó cải cách được thiết kế một cách nhất quán từ trên xuống nhưng khi thực hiện địa phương được quyền “biến tấu” và sáng tạo để phù hợp với điều kiện đặc thù. Nhiều khi cải cách từ trên xuống một cách cứng nhắc thì ở dưới không có sự tự chủ, nhưng nếu cứ thả cho địa phương làm một cách tùy nghi thì dễ rơi vào trạng thái hỗn loạn. “Quản trị thích ứng” đòi hỏi một sự cân bằng và phối hợp rất tinh tế giữa hai thái cực này.
Cuối cùng, điều gần đây được nói rất nhiều là lấy doanh nghiệp, người dân làm trung tâm, trụ cột và chủ thể phát triển.
Kinh tế tư nhân là trụ cột
Trong bài phát biểu của TBT Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68, ý đầu tiên của TBT Tô Lâm không phải Nghị quyết 57, 59 hay 66 mà là Nghị quyết 68. Có lẽ đây không phải là một sự ngẫu nhiên mà xuất phát từ nhận thức và tư duy rất rõ ràng và mạch lạc, đó là kinh tế tư nhân cần được đặt lên đầu tiên, là trụ cột, động lực phát triển quan trọng nhất.
Sau Hội nghị quán triệt này, bước tiếp theo sẽ là các bộ, ngành địa phương xây dựng chương trình hành động quốc gia và hành động cho từng bộ, ngành, từng địa phương. Sau đó là phải thành lập các ban chỉ đạo từ trung ương tới các tỉnh, thành. Lần này có vẻ khác các lần trước ở chỗ sẽ có KPIs rõ ràng. Đây là cách tiếp cận mới của Tổng Bí thư và Thủ tướng, đưa ra KPIs, đưa ra các chỉ tiêu rõ ràng và có thể đo lường được.
Thứ ba là nỗ lực rà soát sửa đổi pháp luật liên quan và ban hành các luật mới, trong đó có thể có luật riêng về phát triển kinh tế tư nhân. Việc này có thể liên quan đến hàng nghìn đạo luật, nghị định và văn bản dưới luật khác nhau. Để đảm bảo cho thông suốt, đồng bộ, không vênh lệch thậm chí trái ngược nhau với khối lượng lớn như vậy trong thời gian rất ngắn. Đây là quá trình cực kỳ gấp gáp, xử lý trong thời gian ngắn một khối lượng công việc cực lớn.
Thứ tư là thiết lập các bộ chỉ số đánh giá định kỳ dựa trên kết quả hành động. Về phương diện này, các doanh nghiệp nên chủ động tham gia góp ý, cụ thể là từ góc độ của doanh nghiệp thì đâu là những KPIs quan trọng nhất cho chính quyền địa phương, cho các sở, ngành, thậm chí cho từng nghị quyết?
Cuối cùng là nỗ lực rất lớn về truyền thông, đối thoại với doanh nghiệp và đối thoại với xã hội.
Năm rủi ro
Khi nhìn lại những thành công và thất bại của chính sách, nhiều khi ngăn chính sách tệ hại còn quan trọng hơn ra chính sách đúng. Ngăn được cái tệ hại thì tự nhiên cái đúng sẽ nổi lên. Còn cứ liên tục đề xuất chính sách mới mà quên mất sự tồn tại dai dẳng, thậm chí biến thái của những điều tệ hại thì có thể chính những điều tệ hại này sẽ triệt tiêu tác dụng của những chính sách đúng đắn kia.
Rủi ro đầu tiên là chính sách nửa vời hoặc có tính hình thức. Đây là thực tế phổ biến ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Nhiều nghị quyết được ban hành nhưng không đi vào cuộc sống. Có nhiều khẩu hiệu nhưng lại ít hành động. Do đó, để phục vụ doanh nghiệp, việc triển khai các nghị quyết phải làm thế nào cho thực chất, cụ thể là làm chi phí tuân thủ thấp xuống; làm thế nào để thực sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D, phát triển thị trường, đầu tư vào ESG – tức là đầu tư vào những thứ căn cơ của doanh nghiệp để tăng năng suất và mở rộng thị trường. Đồng thời, làm thế nào để cho các doanh nghiệp Việt Nam thực sự có thể tận dụng các cơ hội này, chứ không khéo người ngoài lại được hưởng lợi hơn chúng ta, còn chúng ta thiệt thòi ngay trên sân nhà.
Rủi ro thứ hai là các doanh nghiệp thân hữu hoặc các nhóm đặc quyền sẽ chèn ép các doanh nghiệp tư nhân nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các đại gia lớn đã thấy một loạt cơ hội với các khoản đầu tư lên tới hàng chục tỷ đô la, trong khi chưa thấy cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là một thách thức rất lớn và rất hiện thực. Phát triển kinh tế tư nhân, như lời của Tổng Bí thư, không phải chỉ là lót ổ cho đại bàng, mà còn là tạo ra những cánh đồng cho các đàn ong làm mật. Phải hạn chế cạnh tranh không lành mạnh. Phải hạn chế các tập đoàn sân sau thao túng chính sách theo hướng có lợi cho mình, từ đó làm mất động lực cạnh tranh, cũng như đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp muốn làm ăn đích thực.
Rủi ro thứ ba là rủi ro bị kẹt trong bẫy thể chế do cải cách không đồng bộ. Chúng ta ban hành một loạt cải cách, phải sửa đổi hàng ngàn văn bản luật và dưới luật. Nếu không đồng bộ sẽ rất mệt, cái này thay đổi nhưng cái kia không thay đổi, cái này thay đổi nhanh nhưng cái kia thay đổi chậm, mọi thứ giằng co nhau, cuối cùng không đi đến đâu. Cần tránh tình trạng bày lên trên bàn một mâm cỗ bề bộn nhưng không chắc ăn được món nào một cách trọn vẹn và ngon miệng.
Rủi ro thứ tư, vốn đã gặp phải trong một thời gian dài, trong giai đoạn tới không biết có xử lý được không và xử lý như thế nào, đó là chúng ta hội nhập rất rộng nhưng không sâu. Nhìn vào các FTA thì Việt Nam đã bao phủ tới 87% tổng giá trị GDP toàn cầu. Nhưng nhìn vào giá trị gia tăng thì lại rất thấp, tức là chúng ta hội nhập rất rộng như chưa sâu. Vậy thì các nghị quyết về hội nhập, nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân, nghị quyết về đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ có giúp giải quyết được vấn nạn này hay không? Đối với doanh nghiệp sẽ giúp được một cách cụ thể như thế nào?
Rủi ro thứ năm liên quan đến các định hướng chiến lược. Lý do là, đôi khi, khi trung ương và các bộ ngành phát ra một tín hiệu thì doanh nghiệp hồ hởi lao theo nhưng giữa đường đứt gánh. Bởi vì quá trình triển khai phụ thuộc vào vô số các điều kiện. Chẳng hạn như các chính sách hỗ trợ, tuyên bố như vậy nhưng thực tế chỉ “lên tivi để nhận” thì sao? Vì vậy, mỗi một cân nhắc chiến lược của doanh nghiệp cần thận trọng và cân nhắc về khả năng thực thi.
TS Vũ Thành Tự Anh (LBC lược ghi)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này