09:20 - 09/12/2016
Thoái vốn nhà nước và nỗi lo dòng vốn ngoại
Sắp tới, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) sẽ thoái vốn nhà nước nắm giữ tại một số doanh nghiệp lớn qua hình thức chào bán thỏa thuận trên sàn chứng khoán.
Mở đầu cho đợt thoái vốn này là Vinamilk (VNM) vào ngày 12/12, với giá khởi điểm là 144.000 đồng/cổ phần.
Tuy nhiên, do giá khởi điểm này khá cao so với thị giá VNM trong thời gian gần đây, nên kể từ thời điểm SCIC tổ chức giới thiệu cơ hội đầu tư vào VNM trên Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM cuối tháng trước, đã có nhiều phiên trong đó cổ phiếu VNM bị bán ròng, chủ yếu bởi khối ngoại.
Với việc khối ngoại nắm giữ số lượng lớn cổ phiếu VNM, hiện tượng bán tháo VNM, và điều tương tự rất có thể xảy ra với những cổ phiếu khác sau này, khiến dư luận quan ngại về tác động tiêu cực của sự tháo lui của dòng vốn ngoại lên việc ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Quan ngại này là hoàn toàn có cơ sở nếu dựa trên những gì đã diễn ra với những nền kinh tế mới nổi trong khu vực và trên thế giới.
Một đặc điểm chung của những nền kinh tế này là đã phải chứng kiến nhiều thời điểm nền kinh tế tăng trưởng nóng với nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài “nóng” chảy vào để “chụp giật” những cơ hội đầu tư béo bở mang tính thời điểm, chẳng hạn xu hướng tăng lên nhanh chóng của các tài sản tài chính và bất động sản.
Nhưng nếu thế thì chưa đủ để gọi nguồn vốn ngoại này là “nóng”. Chúng chỉ thực sự “nóng” khi chảy vào các nền kinh tế mới nổi này nhanh và ồ ạt thế nào thì lúc chảy ngược ra, vì một lý do nào đó, còn nhanh và ồ ạt hơn thế.
Quay trở lại với trường hợp bán ròng cổ phiếu VNM hiện nay. Sự tháo lui của khối ngoại, nếu có, có thể chủ yếu chỉ là những toan tính chiến lược đầu tư của từng cá nhân, từng tổ chức đầu tư mà thôi (ví dụ, giá đến bao nhiêu thì chốt lãi, chuyển sang cổ phiếu khác hoặc dừng lại nghe ngóng trước khi tiếp tục đầu tư hay nắm giữ nữa), chứ không mang tính phong trào theo kiểu người này, tổ chức này làm hoảng sợ mang tính dây chuyền cho người khác và tổ chức khác để rồi tất cả cùng đồng loạt tháo chạy.
Nếu đúng là sự tháo lui của đại bộ phận nhà đầu tư ngoại chỉ phản ánh sự thay đổi chiến lược đầu tư và tái cơ cấu danh mục đầu tư thì hành động tháo lui khỏi VNM hay các doanh nghiệp lớn khác sẽ không nhất thiết gây ra những tác động tiêu cực, dù là ở mức độ chừng mực.
Bởi vì, nguồn vốn ngoại sau khi tháo lui khỏi VNM hay các doanh nghiệp lớn khác vẫn sẽ chỉ quanh quẩn trong nền kinh tế Việt Nam, được phân bổ qua lại giữa các hạng mục tài sản khác nhau hoặc trong cùng một hạng mục tài sản.
Kể cả khi một bộ phận của dòng vốn ngoại này thực sự bị nhà đầu tư nước ngoài sau khi chốt lãi rút về bản quốc hoặc chuyển sang thị trường nước khác thì tính chất “bộ phận” của nó cũng chỉ gây ra một tác động mang tính “bộ phận”, tức là không đáng kể lên nền kinh tế Việt Nam.
Suy cho cùng, nếu dòng vốn nước ngoài có chảy ngược ra khỏi nền kinh tế Việt Nam, theo cách có kiểm soát, thì đây cũng là điều bình thường, đôi bên – Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài – đều (đã) có lợi. Với Việt Nam, đó là việc có thêm một nguồn vốn để tăng trưởng và phát triển, dù là nguồn vốn để trống ngày đến hạn thanh toán. Với nhà đầu tư ngoại, sự gia tăng giá trị tài sản nắm giữ tại Việt Nam giúp họ gặt hái lợi nhuận kép (từ cổ tức và chênh lệch giá mua, bán cổ phiếu).
Khi nguồn vốn ngoại chảy vào, quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gia tăng. Khi nguồn vốn ngoại chảy ra, nếu NHNN không muốn có áp lực gia tăng lên tiền đồng thì họ bán bớt một phần (hoặc toàn bộ) số ngoại tệ gia tăng này để “bình ổn” tỷ giá.
Như vậy, nếu mọi việc diễn ra trong trật tự, có kiểm soát thì dù vốn ngoại chảy ngược ra ngoài cũng sẽ chẳng có gì đáng lo ngại, và với Việt Nam, “của thiên” không hoàn toàn phải “trả địa”.
Nói cách khác, điều quan trọng ở đây để không xảy ra những hậu quả lớn cho nền kinh tế thì sự thoái vốn và rút về của nhà đầu tư ngoại phải là kết quả của những tính toán kinh tế thông thường chứ không phải là hậu quả của sự tháo chạy hoảng loạn, mang tính bầy đàn, không thể kiểm soát được.
Trong chừng mực mà nền kinh tế Việt Nam chưa bộc lộ những dấu hiệu rủi ro vĩ mô nghiêm trọng như nền kinh tế tăng trưởng nóng với hàng loạt chỉ báo như thâm hụt thương mại lớn, lạm phát cao, tiền đồng lên giá thực lớn, nợ nước ngoài của doanh nghiệp gia tăng nhanh chóng… thì chừng đó việc thoái vốn và rút lui của nhà đầu tư ngoại sẽ vẫn chỉ là điều bình thường.
Phan Minh Ngọc
Theo TBKTSG
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này