23:06 - 03/04/2017
Người Thái thầm lặng
Không quá ồn ào, các nhà đầu tư Thái Lan bước vào thị trường Việt Nam một cách nhẹ nhàng, từng bước vững chắc.
Từ xi măng…
Mới đây, tập đoàn Siam City Cement (SCCC) đã bỏ ra hàng trăm triệu đô la Mỹ mua lại 65% cổ phần của Holcim Việt Nam trong liên doanh giữa Holcim với Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam (Vicem nắm 35%). Đây là một thương hiệu nắm thị phần lớn trên thị trường xi măng các tỉnh phía Nam hàng chục năm qua. Qua thương vụ này, Holcim Việt Nam đã chính thức đổi tên thành Công ty TNHH Siam City Cement Việt Nam, kèm theo đó là sáu tháng chuyển đổi từ thương hiệu Holcim sang thương hiệu INSEE với các sản phẩm như xi măng đa dụng, xi măng xây tô, xi măng công nghiệp, cấu kiện đúc sẵn, bê tông thương phẩm.
Câu hỏi là: sản xuất xi măng từ năm 1972 tại Thái Lan, vì sao đến nay SCCC mới có những bước đi táo bạo vào lĩnh vực sản xuất xi măng tại Việt Nam, nhất là trong bối cảnh cung xi măng trong nước đang dư thừa? Theo ông Philippe Richart, Tổng giám đốc của INSEE tại Việt Nam, việc đầu tư vào Holcim Việt Nam được cho là bước ngoặt tạo nền tảng cho Siam City Cement thiết lập vị thế dẫn đầu thị trường xây dựng tiềm năng của Việt Nam. Không chỉ có xi măng, trong chiến lược phát triển chung, INSEE còn nhắm đến phát triển các vật liệu xây dựng như gạch không nung, cốt liệu thân thiện môi trường tại nhiều nước trong khu vực như Campuchia, Indonesia, Bangladesh, Sri Lanka và Việt Nam.
Một nhà đầu tư khác cũng đến từ Thái Lan là tập đoàn SCG. Đầu tháng 3 vừa qua, tập đoàn này đã công bố một thành viên của họ là Công ty TNHH SCG Xi măng – vật liệu xây dựng đã bỏ ra gần 160 triệu đô la Mỹ mua 100% cổ phần của một công ty sản xuất vật liệu xây dựng tại miền Trung có công suất 3,1 triệu tấn/năm. Trước đó, SCG đã mua lại Công ty Xi măng Bửu Long tại Đồng Nai và rót thêm hàng triệu đô la Mỹ để củng cố dây chuyền sản xuất, nâng công suất xi măng Bửu Long lên 200.000 tấn/năm.
Với sự thâm nhập bước đầu của hai nhà đầu tư có thế mạnh về vật liệu xây dựng như SCG và SCCC, có thể thấy giờ đây, các nhà sản xuất trong nước phải nhìn lại mình để có những cải tiến công nghệ, quảng bá sản phẩm phù hợp hơn với thị trường nếu muốn tiếp tục tồn tại trong cuộc đua. Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, chia sẻ: “Về công nghệ và quản lý, chắc chắn các nhà đầu nước ngoài làm tốt hơn nhà đầu tư trong nước. Sự xuất hiện của họ sẽ làm cho ngành xi măng phát triển tích cực hơn, có chiều sâu hơn, tránh tụt hậu. Chỉ tiếc cho các nhà đầu tư trong nước là sau nhiều năm dài vượt khó, đến khi bước vào thời kỳ hái trái ngọt thì họ lại nhường cho người khác hưởng. Nhưng hội nhập thì phải chấp nhận, trên thế giới cũng như vậy thôi!”.
Hiện cả nước có khoảng 80 dây chuyền sản xuất xi măng của 60 nhà đầu tư với tổng công suất 800 triệu tấn/năm và sẽ tăng lên 100 triệu tấn/năm vào năm 2020. Theo ông Nguyễn Quang Cung, dù số lượng các nhà đầu tư ngoại không nhiều trong số này nhưng thị phần mà họ chiếm lĩnh lại không hề nhỏ.
…Đến nhựa và các ngành khác
Hiện nay, các công ty trực thuộc SCG đang nắm quyền chi phối tại một số doanh nghiệp sản xuất nhựa lớn trong nước bằng việc mua lại khoảng 24% cổ phần của Nhựa Tiền Phong (NTP), 20,4% của Nhựa Bình Minh (BMP) và 80% cổ phần Nhựa Tín Thành. Nếu tính cả các ngành khác như hóa dầu, giấy, bao bì, xi măng, vật liệu xây dựng thì sau khoảng 25 năm hiện diện, đến nay, SCG dần khẳng định vị thế với hơn 20 công ty đang sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, và có vẻ như con số này chưa dừng lại.
Ông Nguyễn Hoàng Ngân, Tổng giám đốc Nhựa Bình Minh, chia sẻ rằng sau khi SCG mua 20,4% cổ phần tại Nhựa Bình Minh vào năm 2012, về mặt quản trị doanh nghiệp, hai bên đã có những cuộc tham quan qua lại, học hỏi lẫn nhau. Về hiệu quả đầu tư, nhà đầu tư Thái này đã nhanh chóng gặt hái lợi nhuận ngay sau khi mua cổ phần tại Bình Minh vì tỷ suất lợi nhuận của Bình Minh ngày một tăng cao. Cách đây ba năm, SCG bày tỏ mong muốn tăng tỷ lệ sở hữu tại nhựa Bình Minh lên 49%, tức thâu tóm hết phần cổ phần nước ngoài tại Nhựa Bình Minh, nơi có công nghệ sản xuất dựa vào công nghệ hiện đại của châu Âu ngay từ ban đầu và có tiềm năng phát triển thị trường ngày càng lớn.
Ông Ngân cho rằng một số nhà đầu tư Thái Lan vẫn đang nhắm đến việc thâu tóm các thương hiệu nhựa đã đứng vững trên thị trường, bởi điều này giúp họ sớm gặt hái lợi nhuận, không mất nhiều thời gian đầu tư nhà xưởng, phát triển hệ thống phân phối.
Ông Trần Việt Anh, Phó chủ tịch Hội Cao su – Nhựa TPHCM, cho rằng các doanh nghiệp Thái đã nhìn thấy thị trường nhựa Việt Nam là mảnh đất màu mỡ vì sức tiêu thụ tăng rất mạnh với tổng giá trị năm 2016 ước khoảng 15 tỉ đô la Mỹ, dự báo sẽ tăng lên xấp xỉ 20 tỉ đô la trong vài năm tới. Ông Việt Anh cũng tỏ ra lo ngại ở một tương lai không xa, các nhà đầu tư Thái với lợi thế về năng lực tài chính, khả năng quản trị tốt cùng những bước đi thận trọng nhưng ngày càng lấn sâu vào các ngành công nghiệp, họ sẽ dần nắm phần hơn trong chiếc bánh thị phần. Các nhà sản xuất nội địa nếu không sớm thay đổi thì chỉ có thể hưởng phần nhỏ lẻ hoặc trở thành người làm gia công trên chính đất nước mình.
Nhìn sang một số lĩnh vực sản xuất khác, ông Phạm Ngọc Hưng, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM, cho rằng trong thời gian qua, thông qua việc mở rộng hợp tác kinh doanh với các nhà phân phối trong nước, các nhà đầu tư Thái Lan đã chứng tỏ họ là người am tường về nhu cầu tiêu dùng tại thị trường Việt Nam đối với các sản phẩm thực phẩm như thức ăn gia súc, thịt heo, thịt gà, trứng, thực phẩm chế biến… Một trường hợp điển hình được ông Hưng nhắc đến là Công ty TNHH Chăn nuôi C.P của Thái Lan tại Đồng Nai. “Ở một khía cạnh nào đó, việc các nhà đầu tư Thái Lan nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung đẩy mạnh hợp tác đầu tư vào công nghiệp, nông nghiệp ở Việt Nam chắc chắn tạo ra sức cạnh tranh tốt hơn cho doanh nghiệp nội địa trong đổi mới công nghệ để làm ra sản phẩm tốt hơn, giá cả hợp lý hơn. Theo xu hướng đó, người tiêu dùng được hưởng lợi”, ông Hưng nói.
Ông Hưng chia sẻ có lần ông đi giảng tại một lớp đào tạo về kỹ năng truyền thông của doanh nghiệp với báo chí, ông phát hiện có nhiều học viên là người Thái nhưng nói tiếng Việt rất sõi và học tập chăm chỉ. “Điều này phần nào cho thấy nhiều doanh nghiệp Thái có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Họ không quá ồn ào nhưng có những bước đi bài bản, vững chắc để tiến vào thị trường Việt Nam, không chỉ bằng chất lượng sản phẩm mà cả về phương thức truyền thông cũng như việc nắm bắt sát sao nhu cầu và diễn biến thị trường. Trong khi đó, có thể thấy một số nhà sản xuất trong nước có tâm lý lơ là, chủ quan trên sân nhà…”, ông Hưng nhận xét.
Theo TBKTSG
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này