11:26 - 25/07/2018
Làm sao thoát cảnh gia công?
Vài năm gần đây, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tăng trưởng xuất khẩu khá ấn tượng, tuy nhiên, để thu về kim ngạch hàng chục tỷ USD, doanh nghiệp cũng đang phải chi ra số tiền không nhỏ để nhập nguyên liệu.
Ít ai ngờ, nhiều mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu đứng tốp đầu lại đang làm gia công giống như dệt may, da giày…
Thu 1 đồng, chi 0,5 đồng
Ông Hồ Ngọc Cầm, giám đốc công ty TNHH xuất nhập khẩu nông lâm sản Phương Minh (Bình Phước), cho biết từ đầu năm 2018 đến nay, công ty chỉ làm 30% công suất do không đủ nguyên liệu. Không chỉ Phương Minh, tình trạng thiếu nguyên liệu cũng đang xảy ra ở hầu hết doanh nghiệp ngành điều, như tỉnh Bình Phước có khoảng 600 nhà máy thì 480 đang ngưng hoạt động; Long An có 33 nhà máy thì 21 ngưng. Các nhà máy đang hoạt động thì công suất giảm đáng kể.
Câu chuyện thiếu nguyên liệu của ngành điều diễn ra nhiều năm nay do sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 30%, còn lại doanh nghiệp phải lệ thuộc nước ngoài. Theo thống kê của tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15.7.2018, ngành điều xuất khẩu thu về hơn 1,8 tỷ USD, thì cũng phải chi ra tới 1,296 tỷ USD nhập nguyên liệu. Ông Hồ Ngọc Cầm từng là chủ tịch hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas), thừa nhận ngành điều ngày càng giống dệt may, da giày – lệ thuộc phần lớn nguyên liệu nhập khẩu, nên giá trị gia tăng thu về từ hoạt động xuất khẩu không đáng kể.
“Năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 3,5 tỷ USD, năm nay dự kiến nâng lên 4 tỷ, nhưng thực chất doanh nghiệp điều đang làm gia công!”, ông Cầm nói. Một mặt hàng khác là thuỷ sản có đà tăng trưởng xuất khẩu không kém cạnh hạt điều, nhưng chúng ta cũng đang lệ thuộc nguyên liệu nhập khẩu ngày càng nặng hơn. Hơn bảy tháng đầu năm nay, theo thống kê, ngành thuỷ sản mang về khoảng 4,2 tỷ USD, nhưng doanh nghiệp chi ra tới 922 triệu USD nhập nguyên liệu. Ông Trần Văn Lĩnh, giám đốc công ty cổ phần thuỷ sản và thương mại Thuận Phước, Đà Nẵng, nói doanh số xuất khẩu trung bình mỗi năm của Thuận Phước trên dưới 100 triệu USD, nhưng cũng phải chi ra ngót phân nửa nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất là tôm thẻ chân trắng, xuất xứ từ Ấn Độ, theo ông Lĩnh, vì trong nước không đáp ứng đủ sản lượng, kích cỡ và giá thường cao hơn 2 – 3 USD/kg.
“Vài năm gần đây tôm nuôi nội địa còn bị thương lái Trung Quốc sang tranh mua, đẩy giá lên cao, nên doanh nghiệp Việt Nam buộc phải mua tôm từ bên ngoài về chế biến”, ông Lĩnh nêu thêm lý do như vậy. Hơn bảy tháng đầu năm 2018, tổng cục Hải quan còn thống kê có thêm khá nhiều mặt hàng nhóm nông lâm thuỷ sản có kim ngạch xuất khẩu đạt tỷ USD, nhưng giá trị nhập khẩu nguyên liệu cũng không thua kém. Chẳng hạn như cao su, hơn hai quý đầu năm, doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 629 ngàn tấn mủ cao su các loại, thu về 908 triệu USD; thì nhóm doanh nghiệp chế biến sản phẩm cao su cũng phải bỏ ra 568 triệu USD nhập 311 ngàn tấn nguyên liệu. Cũng liên quan đến ngành cao su, trong khi chúng ta xuất khẩu được 359 triệu USD sản phẩm từ cao su, thì phải chi đến 445 triệu USD nhập sản phẩm tương tự. Ngành đồ gỗ có tỷ lệ gia công cao không kém khi thu về được 4,43 tỷ USD, cũng chi ra 1,154 tỷ nhập nguyên liệu.
Còn, số liệu xuất khẩu trái cây mà bộ Công thương công bố tăng trưởng rất ấn tượng, nhưng thật ra phần lớn là… xuất khẩu giùm cho Thái! Theo bộ Công thương cho biết, hơn bảy tháng đầu 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt 2,1 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái; nhưng ngược lại, chúng ta cũng nhập khẩu khoảng 754 triệu USD rau quả, tăng hơn 18% và chủ yếu từ Thái Lan và Trung Quốc. Hầu hết doanh số 266 triệu USD nhập khẩu rau quả đến từ Thái Lan trong năm tháng đầu năm 2018, được doanh nghiệp xuất 100% sang Trung Quốc, gồm bốn loại trái là nhãn tươi, sầu riêng, măng cụt và nhãn khô. Như vậy, giá trị thu về từ sản xuất trong nước của ngành rau quả cũng không còn là bao nhiêu.
Nhiều hệ luỵ
Việt Nam có lợi thế khí hậu, đất đai phù hợp trồng bắp, nành, khoai mì, kể cả đậu tương phục vụ cho ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, nhiều năm nay, theo thừa nhận của hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn vẫn phải nhập khẩu 65 – 70% nguyên liệu, chỉ có chưa đến 30% nguyên liệu sản xuất trong nước như cám gạo, khoai mì, bắp… có hàm lượng đạm thấp.
Ông Lê Bá Lịch, chủ tịch hiệp hội này, dẫn số liệu từ tổng cục Hải quan, nói: hơn bảy tháng đầu năm, Việt Nam phải chi tới hơn 3,13 tỷ USD nhập 696 triệu tấn lúa mì, 5 triệu tấn bắp, 993 triệu tấn khô dầu đậu tương và nhiều loại nguyên liệu, thức ăn thành phẩm khác. Theo ông Lịch, những thứ như bắp, đậu tương, Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động được nếu có chiến lược quy hoạch, đầu tư trồng một cách bài bản ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
“Nhiều năm rồi chúng tôi kiến nghị cần phải có chính sách dành quỹ đất, vốn, nghiên cứu giống, hỗ trợ doanh nghiệp và đặc biệt phải có cơ chế thuế phù hợp để thúc đẩy phát triển nguyên liệu nội địa, nhưng rất tiếc không được cơ quan nào quan tâm!”, ông Lịch tâm sự.
Với cây điều, theo ông Hồ Ngọc Cầm, sản lượng trung bình 1ha khoảng từ 3 – 4 tấn, nhân với giá điều nguyên liệu ổn định ba bốn năm nay là 40 – 50.000 đồng/kg, thì nông dân hoàn toàn có thể an tâm trồng điều. Tuy nhiên, từ năm 2005, ngành điều có kế hoạch tăng diện tích từ 300 lên 500 ngàn ha sau năm năm; nhưng đến nay, sau hơn mười năm diện tích không tăng mà đang giảm mạnh. Tình trạng này, một phần do cây điều chưa được đầu tư đúng mức, còn có nguyên nhân nguyên liệu điều thế giới dồi dào, nhập khẩu dễ dàng. Tuy nhiên, việc phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu không phải là hướng đi bền vững cho ngành điều.
“Tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta phải đánh giá lại vai trò của ngành điều đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, để có chính sách đầu tư vùng nguyên liệu cho tương xứng. Nếu cứ phụ thuộc vào nhập khẩu, không chỉ chúng ta đang làm gia công thu về giá trị thấp, mà còn đẩy hàng ngàn nhà máy đến phá sản bất cứ lúc nào!”, ông Cầm kiến nghị.
Minh Đức (theo TGTT)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này