09:04 - 03/09/2019
Số hóa châu Á: Kỹ thuật số hỗ trợ tốt việc chăm sóc sức khoẻ
Chính phủ Ấn Độ đã và đang thúc đẩy áp dụng công nghệ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Dịch vụ y tế kỹ thuật số phát triển ở Ấn Độ
Hiệp hội Các công ty dịch vụ và phần mềm quốc gia Ấn Độ (NASSCOM) hợp tác với ngành y tế, nhằm tận dụng lợi ích của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo – AI.
Một báo cáo gần đây cho thấy ở Ấn Độ, việc áp dụng công nghệ y tế kỹ thuật số và ứng dụng AI trong chăm sóc sức khoẻ, đã phát triển đáng kể.
Theo báo cáo Chỉ số sức khoẻ tương lai (FHI) 2019, Ấn Độ đang dẫn đầu áp dụng công nghệ y tế kỹ thuật số, với 76% chuyên gia chăm sóc sức khoẻ tại quốc gia này sử dụng hồ sơ sức khoẻ kỹ thuật số (DHR) trong thực tế. Hồ sơ có thể cho phép các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ có quyền truy cập vào thông tin chính xác, cập nhật và đầy đủ hơn về bệnh nhân, đồng thời, cho phép có sự phối hợp hơn trong toàn bộ hành trình chăm sóc sức khoẻ của bệnh nhân.
FHI dựa trên nghiên cứu chính được tiến hành trên 15 quốc gia, nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm của các chuyên gia và cá nhân chăm sóc sức khoẻ.Ấn Độ đáp ứng mức trung bình 15 quốc gia khi sử dụng AI trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, ở mức 46%.Báo cáo xác nhận rằng, công nghệ y tế kỹ thuật số là một trụ cột quan trọng trong việc cung cấp dịch vụchăm sóc sức khoẻ ở Ấn Độ hiện nay.
Các công cụ bao gồm: các giải pháp thông minh và thích ứng, có thể giúp hạ thấp các rào cản giữa bệnh viện và bệnh nhân, từ đó cải thiện khả năng tiếp cận chăm sóc và tăng cường sự hài lòng của bệnh nhân nói chung, đặc biệt ở các thành phố nhỏ của Ấn Độ.
Thống kê của chính phủ cho thấy: 80% các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ ở Ấn Độ đã chia sẻ thông tin bệnh nhân với các chuyên gia khác trong cơ sở y tế của họ, tương đương với số lượng các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ chia sẻ thông tin bệnh nhân điện tử trên 15 quốc gia. Khi các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ Ấn Độ được hỗ trợ bởi công nghệ kỹ thuật số, thì trải nghiệm của họ được cải thiện rõ. Phần lớn các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ sử dụng DHR trong báo cáo thực hành của họ, đã xác nhận rằng DHR có tác động tích cực đến chất lượng chăm sóc (90%), sự hài lòng của chuyên gia chăm sóc sức khoẻ (89%) và kết quả của bệnh nhân (70%), khi so sánh với 15 quốc gia trung bình lần lượt là 69%, 64% và 59%.
64% chuyên gia chăm sóc sức khoẻ Ấn Độ đồng ý rằng, bệnh nhân có quyền truy cập vào dữ liệu sức khoẻ của chính họ (bao gồm kết quả xét nghiệm, đơn thuốc, quét, v.v.) đã tác động tích cực đến trải nghiệm của bệnh nhân.Và có tới 87% người Ấn Độ có quyền truy cập vào hồ sơ sức khoẻ kỹ thuật số của họ, nói rằng họ muốn các chuyên gia chăm sóc sức khoẻcủa họ cũng có quyền truy cập.
Báo cáo cũng lưu ý rằng, khoảng 2/3 (67%) người Ấn Độ cảm thấy thoải mái hoặc trung lập về việc tìm kiếm lời khuyên y tế từ bác sĩ của họ, thông qua một ứng dụng y tế trên điện thoại của họ.Tuy nhiên, vẫn còn khoảng một nửa (49%) người Ấn Độ nói họ không biết gì về lợi ích của công nghệ y tế kỹ thuật số hoặc ứng dụng di động trong chăm sóc sức khoẻ.
Dùng AI phát hiện và theo dõi chứng phình động mạch não
Một công trình hợp tác nghiên cứu mới, tập trung vào phát triển một giải pháp tận dụng AI để phát hiện và theo dõi chứng phình động mạch não khi quét nhanh hơn và hiệu quả hơn đã được công bố gần đây. Đại học Australia Mac Macquarie sẽ làm việc với một công ty công nghệ thông tin, một công ty công nghệ y tế và một công ty hình ảnh y tế, để cải thiện chẩn đoán phình động mạch não.
Dự án đã nhận được khoản tài trợ 2,1 triệu đô la Úc từ bộ Công nghiệp, đổi mới và khoa học.
Chứng phình động mạch não là một rối loạn phổ biến gây ra bởi một điểm yếu trong thành động mạch não.Chứng phình động mạch có ở khoảng 2 – 8% người trưởng thành ở Úc.
Vỡ chỗ phình động mạch gây xuất huyết não trong 85% các trường hợp, dẫn đến tử vong ở 30 – 40% số người và 20% thương tật vĩnh viễn ở những người sống sót.
Ban đầu, dự án sẽ tập trung vào việc cải tiến công nghệ, nhằm tạo ra một giải pháp thương mại hoá hoàn toàn, sẽ được phân phối ban đầu thông qua thực hành X-quang tại Úc, và cuối cùng trên toàn thế giới. Ứng dụng AI có thể giúp các bác sĩ hiểu rõ, nhanh hơn và tạo ra ít kết quả khác nhau.Các phương pháp sử dụng AI sẽ được áp dụng cho hình ảnh của não và sử dụng thuật toán được đào tạo đặc biệt, để tìm kiếm những bất thường và phình động mạch.
Kết quả từ dự án này được dự đoán sẽ bao gồm sự phát triển và xác nhận thuật toán AI, có khả năng làm nổi bật các mạch máu trong vòng tròn của Willis. Willis là một vòng động mạch được đặt ở đáy não có nguy cơ phình động mạch. Công nghệ này cũng sẽ cho phép theo dõi và xác định tình trạng phình động mạch theo thời gian.
Điều này sẽ cung cấp cho các bác sĩ X-quang một công cụ hỗ trợ chẩn đoán có giá trị, và bệnh nhân yên tâm hơn, rằng chứng phình động mạch đã được theo dõi hiệu quả trong thời gian dài.
Cung cấp dịch vụ chat để cải thiện sức khoẻ tâm thần
Dịch vụ trò chuyện bằng văn bản theo thời gian thực, làm cho người dân dễ sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ hơn. Trung tâm Điện tử quốc gia của đại học Công nghệ Swinburne (Úc) đã hợp tác với một công ty khởi nghiệp là CSIRO MEDTECH, để cung cấp dịch vụ cải thiện sức khoẻ tâm thần, thông qua các phiên trò chuyện bằng văn bản (gõ, chat) theo thời gian thực được mã hoá.
Dịch vụ này được cung cấp miễn phí cho tất cả người Úc và tập trung những người bị trầm cảm và lo lắng. Bên cạnh email và các cuộc gọi video, thì chat là một phương thức bổ sung để đáp ứng nhu cầu lớn hơn trong cộng đồng. Phương tiện “trò chuyện bằng văn bản” rất phổ biến, vì mọi người không phải chịu áp lực đối đáp (nói chuyện) hay thể hiện khuôn mặt mình.
Các phiên trò chuyện văn bản cho đến nay đã rất thành công, kể từ khi được triển khai vào tháng 3/2019, cách này đã trở thành một lựa chọn rất phổ biến trong số các khách hàng.
Đã có các khoá học được thiết kế để cung cấp cho mọi người các công cụ, để tự quản lý sức khoẻ tâm thần của mình.Và chỉ có cách chat mới thêm vào các cuộc trò chuyện video nhiều thông tin hữu ích.
Tất cả dữ liệu được mã hoá và đảm bảo được xoá vào cuối phiên bệnh nhân (để đảm bảo quyền riêng tư), trừ khi họ cho phép lưu.
Đại học NTU (Singapore) phát triển thận thu nhỏ
Một công trình nghiên cứu của đại học Công nghệ Nanyang (NTU) đã phát triển các phiên bản thu nhỏ của thận, để tham gia quá trình điều trị bệnh thận. Được phát triển từ các tế bào chiết xuất từ tế bào da của mỗi bệnh nhân, các quả thận thu nhỏ có thể được sử dụng để sàng lọc thuốc, xác định liệu trình điều trị tốt nhất cho từng bệnh nhân.
Các thử nghiệm được thực hiện trên các quả thận chỉ có đường kính từ 1 – 2 mm, sẽ hỗ trợ các nghiên cứu xác định loại thuốc và phương pháp điều trị nào phù hợp nhất cho bệnh nhân mắc bệnh thận.
NTU cho biết, việc sử dụng thuốc hoặc điều trị, theo tình trạng bệnh nhân là rất quan trọng, vì các lỗi di truyền gây ra suy thận có thể
khác nhau giữa các bệnh nhân.
Tiến hành sàng lọc thuốc trên bệnh nhân sẽ không còn cần thiết, vì các xét nghiệm có thể được tiến hành trên thận thu nhỏ thay thế.
Các bệnh nhân mà các tế bào da được chiết xuất vốn là bệnh nhân bị suy thận, do kết quả của một rối loạn di truyền, thường được gọi là bệnh thận đa nang.Rối loạn này gây ra sự hình thành của nhiều u nang trong thận.
Các tế bào da được phát triển trong phòng thí nghiệm và được sửa đổi để trở thành tế bào gốc tự sao chép, khi được đặt trong điều kiện thích hợp có thể phát triển thành thận thu nhỏ, giống như thận của thai nhi.
Trợ lý giáo sư NT Yun Singapore Xia Yun dẫn đầu nhóm nghiên cứu. Ông nói rằng, việc tạo ra những quả thận thu nhỏ, đã cho phép họ phục vụ cho từng yêu cầu cụ thể của bệnh nhân, bằng cách quản lý các loại thuốc phù hợp nhất với họ.
Bác sĩ Xia từ trường Y khoa NTU Lee Kong Chian (LKC Medicine) cho biết, công việc nghiên cứu này có thể được áp dụng cho nghiên cứu các dạng bệnh thận khác, chẳng hạn như bệnh thận đái tháo đường là tổn thương thận do bệnh tiểu đường.
Hiện nay, y khoa chưa có hệ thống hiểu biết toàn diện về nguồn gốc của mạng lưới mạch máu thận. Tuy nhiên, nghiên cứu về các tế bào trong thận thu nhỏ đã khiến các nhà nghiên cứu phát hiện ra một nguồn tế bào gốc mới, được gọi là nephron 2. Những tế bào này đóng một phần trong sự hình thành của các mạng lưới mạch máu này.
Giáo sư Foo Jia Nee của NTU LKC cho biết, có thể nghiên cứu nephron để xác định xem có mối tương quan hay nguyên nhân nào giữa việc sinh ra với nephron cao hơn và nhận được mức độ bảo vệ cao hơn.
Tiến sĩ Xia nói thêm rằng, sự hiểu biết sâu sắc về sự phát triển thận của con người, sẽ giúp các nhà nghiên cứu tạo ra những cách để tạo ra số lượng nephron sinh cao cho thai nhi.
Vũ Khánh (theo TGHN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này