13:56 - 02/05/2019
‘Chính phủ Việt Nam cần làm gương để phát triển kinh tế số’
Hành lang pháp lý Việt Nam hiện được các chuyên gia đánh giá là “chậm 3-5 năm” so với sự phát triển của kinh tế số. Chính phủ có thể dẫn dắt, làm gương trong hoạt động này.
Những sáng kiến, dự án lớn được đưa ra cần đảm bảo Chính phủ sử dụng những công nghệ, những hạ tầng hiện đại nhất.
Thế nào là kinh tế số?
Mở đầu Hội thảo phát triển kinh tế số, sáng 2/5, ông Vũ Đại Thắng – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư dẫn nghiên cứu của Google và Temasek (Singapore) cho biết, kinh tế số của Việt Nam đạt 3 tỷ USD năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Trong khi đó một nghiên cứu khác của Tổ chức Data 61 (Australia), GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm nếu Việt Nam chuyển đổi số thành công.
Tuy nhiên, những con số “hấp dẫn” ấy không thể phủ nhận thực tế mà chính ông Thắng và người điều phối chương trình – Nguyễn Trung Chính phải thừa nhận là, khái niệm “kinh tế số” ở Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi và cần được xác định lại.
Ông Thắng cho biết, khái niệm kinh tế số nhìn một cách cơ bản theo ông là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số. Ông Thắng cho biết Bộ Kế hoạch & Đầu tư sẽ xây dựng những chiến lược về kinh tế số và CMCN 4.0 dựa trên khái niệm này.
Còn ông Nguyễn Thành Hưng – Thứ trưởng Thông tin Truyền thông cho rằng, phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Sử dụng kinh tế số sẽ góp phần tăng năng suất lao động. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng…
Qua việc sử dụng công nghệ, các sản phẩm dịch vụ được phản ánh từ người sử dụng để có thể điều chỉnh cho phù hợp. Bên cạnh đó, người ta cũng có thể sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới như Grab, Uber, AirBnb…
Chia sẻ tại hội thảo, ông Bùi Thế Duy – Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ cũng cho rằng, cần hiểu cặn kẽ về khái niệm kinh tế số, tránh nhầm lẫn.
Lãnh đạo Bộ Khoa học & Công nghệ chia sẻ, kinh tế số là một phần của nền kinh tế trong đó gồm các mô hình kinh doanh tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp. 20 năm qua các bộ, ngành đã chuẩn bị cơ chế, chính sách trong xây dựng hạ tầng về phát triển công nghệ số.
Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất hiện nay trong phát triển kinh tế số, ông Duy nói, là sự hội tụ loạt công nghệ mới (điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo…) trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0. Công nghệ mới cho phép doanh nghiệp xử lý khối lượng công việc lớn, đưa ra quyết định thông minh hơn. Điều này cũng đồng nghĩa, phân tích dữ liệu lớn tạo ra cấp độ mới trong phát triển kinh tế số.
Chính phủ Việt Nam cần làm gương để phát triển kinh tế số
Đóng góp cho sự phát triển kinh tế số, TS Brian Hull, Tổng giám đốc ABB Việt Nam chỉ ra bốn việc cần thực hiện.
Một là cần thúc đẩy kinh tế số ở mọi thành phần. Lấy ví dụ về sự phát triển tương tự tại Anh, TS Brian Hull cho rằng Việt Nam nên tổ chức những cuộc thi hàng năm để tìm ra những nhà sản xuất tốt nhất, công nghệ, nhân lực giỏi nhất. Đây là cách để mọi người hiểu rằng công nghệ số đang hiện diện, những kỹ sư trẻ có cơ hội tốt để nâng cao kinh nghiệm trong sản xuất.
Điểm thứ hai là tìm ra giải pháp thúc đẩy việc áp dụng công nghệ ở cả bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi công nghệ mới xuất hiện, những doanh nghiệp này sẽ khó có đủ tiềm lực để tìm hiểu và triển khai. Nếu Chính phủ hay những doanh nghiệp lớn có thể xây dựng những cơ chế tư vấn, hỗ trợ để giúp các doanh nghiệp nhỏ tìm hiểu, đưa ra những lời khuyên miễn phí để công nghệ đi vào sản xuất.
Điểm thứ ba là đảm bảo an toàn an ninh mạng. Có nhiều ưu điểm khi thực hiện chuyển đổi sang hạ tầng thông minh, nhưng điều này cũng tiềm ẩn thách thức đến từ việc đảm bảo sự an toàn trong hoạt động. Nhiều nhà sản xuất toàn cầu đã phải dừng hoạt động vì những cuộc tấn công mạng. Do đó, theo Tổng giám đốc ABB Việt Nam, nếu có hạ tầng thông minh thì song song với điều này là việc xây dựng những giải pháp đảm bảo an toàn an ninh hệ thống. Những công ty Việt Nam đảm bảo được điều này thì có thể đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, nhân lực cũng là vấn đề được TS Brian Hull nhắc đến như một tiền đề cho sự phát triển. “Những nhà máy thông minh cũng không thể tự vận hành, chúng ta cần những kỹ sư. Vậy nguồn lực này đến từ đâu? Tôi nghĩ việc phát triển cơ sở nhân lực cũng là điều quan trọng. Nguồn nhân lực đảm bảo sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế số”, Tổng giám đốc ABB Việt Nam nhận xét.
Điểm cuối cùng theo ông là sự đóng góp của Chính phủ trong sự phát triển của kinh tế số. Chính phủ có thể dẫn dắt, làm gương trong hoạt động này. Những sáng kiến, dự án lớn được đưa ra cần đảm bảo Chính phủ sử dụng những công nghệ, những hạ tầng hiện đại nhất.
Điểm yếu trong thực hiện kinh tế số là “triển khai nửa vời”
Trả lời câu hỏi “Thách thức của Việt Nam trong sự phát triển kinh tế số là gì?”, ông Bùi Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn FPT cho rằng thách thức lớn nhất và cũng là một trong những điểm yếu nhất của Việt Nam là khoảng cách giữa hoạch định chính sách và việc đi vào triển khai.
“Chẳng cứ kinh tế số, mà ở nhiều lĩnh vực khác của Việt Nam, việc nói và làm không đi cùng nhau”, ông Ngọc nói và cho rằng Chính phủ đã có những chương trình, những giải pháp phát triển kinh tế số từ hai thập kỷ trước nhưng thực tế, những chuyển biến không tương đồng với kỳ vọng ban đầu. Những chương trình hoành tráng nhưng đi đến triển khai thực tế, lại không mang lại nhiều hiệu quả.
Lấy ví dụ về sự phát triển của kinh tế số tại khu vực công, Phó chủ tịch FPT cho rằng đây là một lĩnh vực quan trọng để tạo cầu cho sự phát triển kinh tế số. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các chương trình xây dựng kinh tế số như Chính phủ điện tử, Y tế thông minh, Giao thông thông minh… lại được triển khai “rất nửa vời”. “Khoảng cách giữa hoạch định và triển khai là thách thức của Việt Nam, đó là khoảng trống rất lớn”, Phó chủ tịch FPT kết luận.
Bên cạnh công tác triển khai, việc xây dựng hành lang pháp lý, theo ông Ngọc, cũng là vấn đề cần khắc phục. Kinh tế số tạo ra những lĩnh vực kinh doanh mới, việc pháp lý hóa những lĩnh vực mới cần được thực hiện đồng bộ, liên quan đến mục tiêu quốc gia về kinh tế số. Việc chuẩn hóa là sự bắt buộc.
Dữ liệu là dầu mỏ của quốc gia trong nền kinh tế số
GS Hồ Tú Bảo, Viện Nghiên cứu cao cấp về toán cho rằng, việc xây dựng và sử dụng dữ liệu mở sẽ là chìa khóa cho nhiều vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân.
Trước hết, theo ông Bảo, cần phải khẳng định dữ liệu là tài sản. Dữ liệu mở tức là bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận và sử dụng, nhưng cần ghi nhận nguồn. “Đã là dữ liệu và tài sản thì phải có người chủ sở hữu, và từ đó hình thành vấn đề quan trọng là việc trao quyền sử dụng từ người sở hữu cho người sử dụng”, ông nói.
Theo VnExpress
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này