15:11 - 11/01/2017
Thiên nhiên đã ‘ăn’ vào tôi
“Quá trình của tôi là bỏ bớt chứ không phải thêm vào. Bỏ bớt đến chừng nào tạo được nhiều khoảng trống nhất, ít màu nhất, thuận mắt nhất thì mình dừng thôi” – họa sĩ Lê Thanh Tùng.
Trong ánh sáng chiều bảng lảng của làng Cù Lần, những bức tranh về sông nước miền Tây của Lê Thành Tùng trở nên u hoài, mênh mông hơn bao giờ.
Anh vẽ Buổi sớm, Mùa nước, Mùa vàng, Nước nổi… mà thật ra là đang vẽ về thân phận con người, thân phận của cả một vùng đất hoang sơ và bí ẩn nhiều thế kỷ, quẫy đạp mọi cách để tìm về ánh sáng.
– Là người sống ở phố thị, nhưng tâm hồn anh lại dành hết cho sông nước Nam bộ, để có thể vẽ lên những bức tranh khiến cho người xem xúc động bởi những khoảng trống u buồn, đơn độc của thiên nhiên, của con người, như tiếng nói của ký ức thẳm sâu?
– Ngay từ bé tôi đã thích vẽ tranh phong cảnh, nhưng cơ duyên dẫn tôi đến với dòng tranh sông nước miền Tây chính là… cái nghèo! Lúc đó con còn nhỏ, vợ chưa có việc làm, kinh tế khó khăn, vẽ người thì phải thuê mẫu, vẽ tĩnh vật thì mua bông mua hoa, rất… bất tiện! Vẽ phong cảnh vừa là điều mình thích, vừa đỡ về kinh tế, vừa đỡ… bí! Vì mỗi vùng miền, mỗi khoảnh khắc đều có những màu sắc, sự cuốn hút khác nhau…
Tôi vẽ những gì gần gũi với mình nhất từ thủa ấu thơ. Nơi chôn rau cắt rún của tôi ở Bến Tre, nhưng tới năm 1982, cuộc sống khó khăn, gia đình tôi phải đi kinh tế mới ở giữa Đồng Tháp Mười, nơi mà đạo diễn Hồng Sến từng quay Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng. Đây cũng là quê ngoại của tôi. Sống giữa phố thị quen rồi, đùng một cái về nơi mùa hạ thì đồng khô cỏ cháy nhìn mút chân trời, mùa mưa thì mênh mông trời nước, ánh sáng đèn dầu leo lét, bếp lửa chỉ toàn củi khô, củi mục. Ngày ấy thiên nhiên còn ưu đãi, những ngày lang thang tát đìa, bắt cá… màu đất phèn, màu đất sình, màu lá mục giống như “ăn” vô trong mình lúc nào không biết… nên khi đi học, màu của tôi… xấu nhất lớp! Cuối cùng, tôi đã chọn cái màu gần gũi nhất với mình từ nhỏ tới lớn đó…
Khi đi vẽ ngoài trời, tôi nhận thấy cả bãi lầy, phù sa, nước đọng… khi màu trời hắt xuống cũng ánh lên rất nhiều sắc thái trong đó, tự nhiên tôi ngộ ra, đưa gam màu đó vô tranh cùng với ký ức của mình, tự nhiên hình thành một lối đi riêng.
– Thân phận của con người, sông nước, đồng bằng hiện lên ám ảnh trong tranh của anh, một cái gì đó thật mong manh, lúc nào cũng như bị đe doạ…?
– Trong cái mênh mông vô định của trời nước ấy, xa xa mới thấy một cái chòi, cuộc sống tạm bợ lắm, con người luôn phải đánh vật với thiên nhiên. Mùa mưa thì muỗi, đỉa, vắt, nước lụt trắng đồng. Phải giăng mùng treo giường lên gần sát mái nhà. Mùa hạn thì nước chua… Người thành thị về nông thôn ít ai đủ sức bám trụ lại để tồn tại, chỉ có người dân địa phương thì người ta quen, vì mồ mả ông bà ở đó…
Tôi muốn vẽ về thân phận con người, không chỉ hôm nay, mà từ thời xa xưa ông bà mình đi mở cõi. Bây giờ, bà con đồng bằng còn có nhiều phương tiện máy móc để làm nông, còn ngày xưa ông cha ta khổ gấp ngàn lần, mà vẫn trụ được nơi đây.
– Bức tranh đầu tiên mà anh bán được?
– Là bức tranh mộc bản khắc gỗ về tĩnh vật, khi tôi còn học năm thứ hai trong trường Mỹ thuật, cũng vụng về lắm, nhưng không hiểu sao lại đoạt giải trong triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, và được bảo tàng Mỹ thuật mua. Lúc ấy tôi chỉ làm hoàn toàn bằng cảm xúc, chứ chưa khái niệm rõ về hình trong tranh. Nhưng mãi đến khi về An Giang, một buổi tối đang vẽ bức tranh phong cảnh đột nhiên cúp điện, trong tích tắc tôi ngộ ra khái niệm về hình.
Ra trường, lấy vợ, sinh con, tôi bỏ vẽ một thời gian, khi cầm cọ lại thấy lọng cọng quá. Nghệ thuật khắc nghiệt lắm, nếu mình không vẽ liên tục sẽ bị thụt lùi. Cũng may có một người thầy luôn dõi theo, đó là thầy Trần Hữu Tri. Thầy nói với tôi: “Em cứ vẽ bằng chính cảm xúc, trái tim mình, đó là mệnh lệnh. Chẳng cần phải đi tìm ở đâu cả. Nếu có lỡ giống ai cũng chẳng sao”.
– Đến một lúc nào đó, thiên nhiên tương đồng với cái bên trong của anh?
– Tôi có học môn Aikido, nó chỉ ra cho tôi một điều khi vẽ không bắt vật theo mình, vì nếu bắt vật theo mình thì vật sẽ chết. Ngược lại nếu chạy theo vật sẽ thành nô lệ vào vật, giống như chép thiên nhiên thôi, không có hồn.
Hội hoạ với tôi là nghiệp, chứ không phải là nghề. Cái đói luôn chực chờ trước mặt, nhưng lúc vẽ, mình giống như là người “vô trách nhiệm” với gia đình, phải chấp nhận hai điều đó để gạt hết mọi thứ sang một bên, sống hết mình với hội hoạ.
Nhiều người cũng góp ý tôi màu sắc phải tươi lên một tí, chứ u ám buồn thảm, chết chóc như thế làm sao bán được? Tôi nghĩ làm cái gì không phải là mình rất khó, sẽ tự giết mình. Tôi đã xác định ngay từ đầu chấp nhận là nghèo, để không phải làm điều mình không thích.
– Giá tranh của anh hiện nay khoảng bao nhiêu một bức?
– Bảo tàng từng mua tranh của tôi giá khoảng 1.000 USD, tôi cũng lấy giá đó bán cho người sưu tập, du di một chút tuỳ theo người, nếu bạn bè nghèo thì mình bớt xuống một chút…
– Anh đã sống được bằng tranh chưa?
– Nói chung là đủ sống, nhưng không giàu được. May mắn nhờ có người vợ học chung trường, hiểu rõ nghề của mình, lo toan hết chuyện con cái gia đình, để mình sống được với nghề. Khi vẽ mình quên đi cả cái nghèo, quên đi bệnh tật…
– Quan niệm nào giúp anh theo đuổi đến cùng con đường nghệ thuật?
– Làm cái gì mình thích đó là hạnh phúc. Hội hoạ giống như là đạo, dạy mình thiện hơn, không giả dối được. Qua một thời gian đi xem tranh, tôi mới thấy dù hoạ sĩ đó có che đậy khéo léo, tinh vi cỡ nào, thì cũng không thể giấu được qua tranh. Bức tranh thể hiện hết bản chất con người.
Kim Yến thực hiện Hoàng Tường hoạ chân dung
Theo TGTT
Một số họa phẩm của họa sĩ Lê Thanh Tùng:
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này