21:00 - 10/03/2017
Nhắc lại ngôn ngữ Sài Gòn để nhớ thêm, biết thêm
Còn nhớ một năm trước, ngày khai mạc Đường sách Sài Gòn, tôi lang thang tìm đến các quầy sách cũ, nơi quyến rũ tôi hơn cả.
Có lẽ, sách ngày trước được bảo chứng bởi những người tri thức ở các lĩnh vực, cho nên không chỉ viết mà sách dịch cũng hay và đáng tin cậy.
Rồi khi thấy mình chỉ đủ tiền để mua vài ba cuốn sách xưa với giá cao, tôi đã chọn ngay cuốn đầu tiên của tác giả Vương Hồng Sển Cuốn sổ tay của người chơi cổ ngoạn, nhà xuất bản là “Tác giả xuất bản”, in lần đầu tiên tháng 6/1972, thay vì lời cảm ơn thông thường mà chỉ duy nhất một chữ: Nhớ. Chính là nhớ ông thầy cũ, ông Bernard Bourotte. Nhớ thầy cũng là nhớ mình, không có thầy là không có mình. Đó là bài học sống động ngay từ trang đầu của cuốn sách mà giờ đây, cũng hiếm khi có thấy lại.
Nhưng lời đề từ sách, ngay những dòng đầu tiên đã nghe như tiếng ông thủ thỉ bên tai, với một giọng rặt Nam bộ: “Sách không đề tựa, trơ trẽn như người thiếu mũ khăn; phải có “nón” để hợp lễ khơi màu. Ra đi hăng hái bao nhiêu, – tôi muốn nói khi bắt tay soạn tập nhỏ nầy, – nay về tới mức, chán chê buồn buồn, khó nói, buồn thỉu buồn thiu, thiếu điều buồn đứt ruột”. Rồi đọc thêm trong sách nghe ra những từ như: giựt gân, rà rà lết lết, nghe một hơi, nghe khín, cà khọt cà khẹt, trật lất hết trơn hết trọi…
Là mê ngay. Mê cái giọng miền Nam.
Rồi nhớ Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Trần Kim Trắc, và giờ là Nguyễn Ngọc Tư, v.v. tất nhiên là còn nhiều, những người viết giữ giọng của mình, không có để lai tạp hay “mất bản sắc”.
Và mới đây nhứt, tôi đọc liền một mạch bốn tập truyện của nhà văn Lê Văn Nghĩa (từng nổi danh với những tác phẩm hài “Nô-tế-bồ”, Thám tử không không thấy, Tào lao xịt bộp…). Đó là Sài Gòn – Dòng sông tuổi thơ; Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài, và tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy; Mùa hè năm Petrus và Tụi lớp Nhứt trường Bình Tây, cây viết máy và con chó nhỏ, do NXB Trẻ ấn hành. Những tác phẩm gọi là truyện dài dành cho thiếu nhi, “nhưng người lớn đọc cũng hổng sao mà người già đọc càng khoái”, như lời giới thiệu từ bìa một cuốn sách của ông.
Không biết đây có phải là “tự tình” không, nhưng đọc tác phẩm của ông nhà văn Nghĩa ở cái tuổi trung niên sồn sồn như tôi, thấy thú vị vô cùng. Cái thú của người được nhớ lại ký ức trẻ thơ, mà lại như được sống trong không gian của những ngày bạn bè cắp sách đến trường, chơi với nhau trong nghĩa khí bạn bè, những bài học yêu thương giúp đỡ nhau khi gặp khốn khó của những đứa trẻ. Ông mô tả lại những câu chuyện đời trong những “xóm nhỏ Sài Gòn” nghèo khó mà đầy tình người. Những bài học giản dị về đức tính người thầy, sự cam chịu của người mẹ hy sinh cho con và cả những đứa trẻ sinh ra trong gia đình cha mẹ nghèo khó ấy cũng đã biết đùm bọc nhau từ thuở nhỏ.
Đó chính là khát vọng của một nhà văn đã từng đi theo các chú, các anh làm cách mạng, bị tù đày và trở về để tiếp tục phục dựng một nền văn hoá bắt đầu từ giáo dục làm người, tránh xa cái ác xấu từ những tâm hồn bị tha hoá bởi danh lợi.
Và ngôn ngữ Sài Gòn xưa là những tiếng Sài Gòn không thể thay thế có thể thấy trong sách của nhà văn Lê Văn Nghĩa: bảnh tỏn, coi chớp bóng thùng, đọc báo khính (coi ké), coi cọp, giựt le, cắc ca cắc củm… Hay chỉ cần câu “Dầu hèn cũng thể, nát vỏ cũng còn bờ tre” cũng biết ra được tính cách của người miền Nam, nghe nôm na, không có bóng bẩy văn chương nên mới gần gũi, thấu tình người.
Nhà văn dựng lại bối cảnh Sài Gòn của thập niên 1960 bằng ngôn ngữ của chính ông, một người con sanh ra và lớn lên ở Chợ Lớn. Có lẽ do vậy mà truyện của anh càng thêm phong phú bởi Sài Gòn phải có Chợ Lớn, Gia Định mới là hoàn chỉnh “Hòn ngọc Viễn Đông”. Vậy mà phỏng vấn ngay tại chỗ hỏi ông những từ mà người Sài Gòn hay nói là gì, ông nghĩ… mãi rồi nói: nó là máu thịt ở trong mình, nói ra là nói thứ tiếng đó, còn phải phân biệt nữa hay sao? Rồi ông nói: cái giá trị lớn nhất của Sài Gòn xưa, chính là nơi đây, đã khai sanh ra lòng trắc ẩn mà luôn dang tay giúp đỡ đồng bào. Chính nơi đây mới có cơm miễn phí cho sinh viên nghèo, “trà đá miễn phí”, “bánh mì miễn phí”, giờ còn có “quần áo miễn phí”, hay những tờ báo mở mục kêu gọi giúp đỡ đồng bào các miền bị thiên tai, lũ lụt, tai nạn… và cũng là nơi nhận quyên góp, đi cứu trợ mà đã trở thành truyền thống hôm nay.
Không chỉ có ngôn ngữ, mà còn có tấm lòng. Đó là cái lý lẽ của người Sài Gòn, lời nói bắt nguồn từ trái tim chứ không cần phải đánh bóng hay mánh khoé như những kẻ “sính chữ”.
À, viết tới đây, mới nhớ lại một anh bạn người Sài Gòn rất hay nhắc: dân miền Nam không chỉ trọng (coi trọng) nghĩa, trọng tài, mà còn trọng chữ.
Nhưng chữ nghĩa cũng như nhân loại, không dừng ở một chỗ mà còn tiếp biến, phát triển thiên hình vạn trạng như một tiến sĩ bên Tây đã viết cả một cuốn sách nghiên cứu về “Quan hệ giữa biến đổi ngôn ngữ và biến đổi xã hội”. Cho nên, nếu hiện tại thấy một bạn trẻ Sài Gòn nói với nhau “hổng dám đâu” thì cũng đừng quá khắt khe mà cho rằng đã bị phai lạt cái màu sắc miền Nam, mà có khi nghe dễ thương, dễ chịu đó chớ!
Ngân Hà
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này