11:16 - 13/05/2018
TS Trần Đức Anh Sơn: Tôi đi ngược lại với trào lưu phá huỷ di sản
Ngày 6/5/2018, TS Trần Đức Anh Sơn đã có mặt ở Sài Gòn để giới thiệu cuốn sách “Đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn” tái bản lần thứ hai, chúng tôi đã trò chuyện với ông Sơn về cuốn sách, cũng như về vấn đề bảo tồn di sản hiện đang là đề tài tranh cãi rất gắt gao, sau câu chuyện liệu có nên phá bỏ dinh Thượng Thơ ở Sài Gòn.
Ông có thể nói qua những điểm chính về sự ra đời của cuốn sách?
– Tôi viết cuốn sách này khởi đầu từ việc thực hiện một luận án để lấy một học vị. Và với một luận án tiến sĩ thông thường chỉ 3 – 5 năm, nhưng vì chắc mình học “ngu” nên tám năm tôi mới hoàn tất. Trong tám năm đó, tôi phải đi thực địa ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.Sau đó có đi qua Đức một thời gian, rồi khi quay về tôi mới hoàn chỉnh tài liệu và viết lại.Đó là bản thảo cuốn sách lần thứ nhất. Sau khi bảo vệ xong, ông chủ tịch tỉnh Thừa Thiên – Huế (thời đó) nói: “Đây là một luận án làm lộ bí mật nhà nước”, và cho cơ quan an ninh đến điều tra mấy tháng, nhưng không có kết quả gì. Cuối cùng, hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao cho tôi giải nhì giải thưởng Sử học Phạm Thận Duật năm 2003 (không có giải nhất). Sau khi nhận giải thưởng, tôi quyết định dịch luận án sang tiếng Anh để xuất bản. Đây là một quyết định mạo hiểm, nhưng tôi vẫn làm để thử sức mình tới ngang đâu ở tầm quốc tế, nếu có sai thì họ sẽ chỉ cho mình để sửa càng hay. Tôi nhờ thầy của mình là Nguyễn Tư Triệt dịch cho tôi lúc đó, rồi nhờ hai vợ chồng anh chị Nguyễn Kim Long và Kerry-Nguyễn Long ở Sydney hiệu đính. Sau đó tôi đưa cho nhà xuất bản (NXB) Cảo Thơm, người phụ trách lúc đó là anh Dũng cũng rất chịu khó in cho tôi một series bốn cuốn. Lúc đó tôi cũng vừa rời khỏi Huế, sách xuất bản tháng 4/2008, bản song ngữ đen trắng. In xong, một NXB ở Đức muốn mua bản quyền cuốn sách này sau khi đã đọc, và họ cho rằng tiếng Anh của cuốn sách được viết bởi giọng văn của người Anh. Và một số điều họ không tán thành, vì thế nếu in lại, họ muốn sửa lại tiếng Anh giọng Mỹ và trình bày phải “Chicago Art book style”, tức là theo phong cách sách nghệ thuật của trường phái Chicago; chứ theo “trường phái Huế” của tôi là tự thiết kế, tự layout sẽ không bán được. Tôi hứa là sẽ tái bản ngay năm 2011. Nhưng sau khi cuốn sách lần đầu tiên xuất bản, đã có một vấn đề khá nóng khiến tôi quan tâm hơn, đó chính là Biển Đông. Vì vậy, tôi đã gác lại dự định tái bản cuốn sách này.Cho đến khoảng cuối năm 2016, khi vấn đề Biển Đông lắng dịu, tôi mới quay lại cuốn sách.Nhờ vậy cuốn sách ra đời và phát hành đúng ngày 21/4/2018.
Lần này làm sách, tôi đã thực hiện theo khuyến nghị của NXB ở Đức theo phong cách họ đề nghị. Về tiếng Anh tôi đã mời một giáo sư ở trường Berkeley (Mỹ) dịch lại giọng Mỹ. Chúng tôi cũng đã tranh luận và thảo luận với nhau rất nhiều lần qua Skype, để chọn những từ và những đoạn văn cho chính xác, nên mất nhiều thì giờ.
Ngoài việc ông như “người được chọn” để làm công việc này, ở đây tôi muốn nói đến chữ duyên hiếm hoi cho những người liên quan đến cổ vật, điều gì khiến ông kiên trì đeo đuổi những mục tiêu kéo dài như vậy?
– Tôi rất may mắn được sinh ra ở Huế, học ở Huế và công việc của tôi sau này đi làm gắn với việc bảo tồn di sản văn hoá. Do đó, cuốn sách này bảo vệ bằng cách viết về một loại hình cổ vật – đó là những cổ vật ra đời từ sự hợp tác giữa người Việt thời Lê Trịnh đến thời nhà Nguyễn, người Việt đưa ý tưởng đặt hàng người Trung Quốc làm. Nghĩa là các tiêu chí Việt đầy đủ xuyên suốt quá trình 400 năm lâu dài như vậy. Vì vậy mà càng nghiên cứu tôi càng say mê, đó là cả một di sản có bề dày mấy trăm năm hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc, do phía người Việt đặt hàng…
Một trong những hình thức bảo tồn là các nhà sưu tập sẽ mua và truyền cho con cháu giữ gìn muôn đời sau, thông qua các cuộc triển lãm, trưng bày, giới thiệu. Cách bảo tồn nữa là cách mà chúng tôi viết sách để phổ biến.Đó là mục đích của tôi trong việc bảo tồn di sản.
Ông làm công tác bảo tồn di sản cũng đã sắp thành “lão làng”, nhưng vì sao ông nghĩ rằng việc của mình làm là có ý nghĩa trong thời buổi mà sự sống – chết của di sản ngày càng mong manh trước thực tế là bị đập bỏ rất nhiều?
Từ nhỏ tôi đã ưa thích việc gìn giữ những cổ vật.Sau đó tôi học lịch sử và ra trường cũng làm ngành này, nên tôi có điều kiện để duy trì đam mê của mình.Không chỉ có duyên mà nó còn liên quan đến những công việc mà tôi đã thực hiện và đã làm, là giữ gìn di sản cho người Việt càng nhiều càng tốt.Trong bối cảnh hiện nay, có trào lưu đập bỏ di sản vì mục đích gì đó thì tôi không biết rõ, vì tôi cũng chỉ là một nhà nghiên cứu. Nhưng di sản không thể xác lập giá trị một sớm một chiều được, mà nó là một chuỗi, một quá trình đến từ ý thức và sự công nhận của cộng đồng, chứ không thể từ một ý chí chủ quan của ai để làm việc đập bỏ đó cả. Vì vậy, không chỉ riêng tôi, mà các nhà nghiên cứu và bảo tồn di sản khác đang khẩn trương làm mọi việc để chứng minh rằng lịch sử Việt Nam có một quá trình văn hoá lâu dài, chúng tôi đang đi ngược lại với trào lưu phá huỷ di sản diễn ra rất nhiều ở Hà Nội, Huế và cả hiện thời ở Sài Gòn.
TS Trần Đức Anh Sơn sinh năm 1967 tại Huế. Ông nguyên làm giám đốc bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế, nguyên trưởng khoa Việt Nam học đại học Phan Châu Trinh, và hiện đang là phó viện trưởng viện Nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng (từ năm 2009). Ông đã xuất bản 11 cuốn sách, trong đó ở mảng di sản văn hoá có những cuốn được giới học thuật đánh giá cao như: Đồ sứ men lam Huế: những trao đổi học thuật (2003), Huế – triều Nguyễn. Một cái nhìn (2004), Ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Việt Nam thời Nguyễn (2013)… cùng với hai cuốn sách quan trọng về Biển Đông: Tư liệu về chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (2014) và Hoàng Sa – Trường Sa: Tư liệu và quan điểm của học giả quốc tế do ông làm chủ biên, xuất bản năm 2014.
Ngân Hà thực hiện
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này