09:37 - 23/01/2017
Neo lòng bến xưa
Tôi yêu những bến sông làm bớt nhọc nhằn cho mẹ cha. Nơi bến sông trước chợ làng, đọng lại tiếng chuông chùa gieo như giọt nước mắt rơi trong vắt.
Đêm ấy, trên bến đò Tà Niên (tỉnh Kiên Giang), tôi bước lên chiếc tàu đò để về Cà Mau. Tiếng máy tàu bình bịch vang rền quãng sông, khách trong khoang đã lố nhố nằm ngồi. Từ nhánh sông nhỏ, tàu ra sông Cái Bé, đến ngã ba sông nơi có chợ Tắc Cậu thì rẽ phải ra sông Cái Lớn, qua sông, tàu vào kênh xáng Xẻo Rô, chạy dài theo kênh xáng này đến hết U Minh Thượng rẽ qua sông Trẹm về Cà Mau.
Nơi chia ly, chờ đợi
Hết nửa đêm về sáng và hơn nửa ngày đường trên sông nước, lần đầu tiên tôi biết đến rừng U Minh, biết cái tên Miệt Thứ nghe nhiều mà nay mới tỏ tường. Nhớ ba năm trước, lần đầu tiên vào giảng đường đại học, nghe cô bạn miền Tây Nam bộ ca sáu câu vọng cổ bài Hoa tím bằng lăng: “Con rạch Cái Thia nó chảy về Tắc Cậu, con sáo sang sông con sáo đậu hiên… nhà”, giọng ca cao vút rồi xuống xề ngọt lịm, bao chàng ngẩn ngơ. Nay mới biết địa danh Tắc Cậu ở vùng đất không xa thị tứ Tà Niên, Minh Lương bao nhiêu mà cứ tưởng ở nơi cùng trời heo hút…
Năm sau, tôi lại ra đi, từ một bến sông nhỏ bên nhánh sông của dòng Hậu Giang, xã Định Hoà, sau những ngày nhóm sinh viên trường đại học Tổng hợp TP.HCM hoàn thành đợt viết sử cho địa phương, mang theo trong tâm tưởng cánh hoa ô môi tím dọc bờ sông và đôi mắt đen láy của người con gái Đồng Tháp.
Với những người ưa xê dịch và phải xê dịch, có biết bao bến bờ. Bến là nơi ra đi, nơi trở về. Bến để chia ly, để đợi chờ. “Bến ấy ngày xưa người đi, vấn vương biệt ly”, Bến cũ của Anh Việt – Ngọc Quang, ngân nga trong lòng bao người. Trên bến một đêm trước hôm con tàu nhổ neo, là nỗi buồn của tình yêu vô vọng: “Còn đêm nay nữa, ta ngồi với nhau… Ngày mai anh đã xa rồi, tình tan vỡ chìm trong lãng quên” – Chuyển bến của Đoàn Chuẩn. Bến là nơi rời đi, cũng là nơi đón chân giang hồ, nơi người con trai trở về mà tiếc nhớ, như Nắng chiều của Lê Trọng Nguyễn: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều”. Về qua sân nắng, nhìn nương dâu úa, không còn giọng hát câu hò, nghe lòng tái tê, xót xa mà trong nắng chiều tình vẫn đẹp dù đã dở dang: “Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi. Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi”.
Hơn nửa đời người, bao lần tôi trở về miền Tây Nam bộ mà không ghé lại được những vùng đất của kỷ niệm thanh xuân. Không ai trách cứ gì nhau bởi ai cũng hiểu một thời của chia xa, cách trở. Đời như nhánh rẽ của trăm dòng, biết lối nào về trong ngàn vạn bến của bao miền đất trong nước Việt này. Vùng đất xưa cũng đã nhiều đổi thay đến không ngờ. Một thời quạnh hiu “Sương khuya ướt đẫm giàn bầu. Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho ai” , đã lùi xa khi giao thương phát triển. Thương dân đò giang cách trở, năm 1984 Nhà nước đã làm hai bến phà cho dân về Miệt Thứ dễ dàng hơn. Ở bờ sông Cái Bé là bến phà Tắc Cậu, bờ sông Cái Lớn là bến phà Xẻo Rô. Có lẽ đây là con phà độc đáo nhất nước khi vượt sông Cái Bé, chạy dọc thêm một đoạn sông dài rồi vượt sông Cái Lớn cập bến Xẻo Rô.
Đến tháng 2.2014, hai bến phà chấm dứt hoạt động, thay bằng hai chiếc cầu hiện đại, giúp người dân từ Kiên Giang về Cà Mau qua ngả quốc lộ 63 nhanh hơn vì không còn cảnh “luỵ phà”. Nếu không phải là người bản địa hay rành rẽ miền Nam, nhiều người sẽ không biết đã từng có một lộ trình phà “dài dằng dặc” giữa nắng gió đầy tràn hay mưa kín mặt sông, suốt 30 năm ròng.
Nơi trở về tuổi thơ
Cũng lạ lùng trên đất nước ta, có hai con sông nối hai cửa biển là sông Trường Giang ở Quảng Nam và sông Cửa Lớn ở Cà Mau. Sông Trường Giang một đầu đổ ra Cửa Đại ở Hội An, một đầu nối sông Tam Kỳ, ra biển qua Cửa Lở và cửa An Hoà. Còn sông Cửa Lớn từ Biển Đông ở cửa Bồ Đề chảy ra biển Tây ở cửa mũi Ông Trang gần mũi Cà Mau. Trên sông, không chỉ là những chuyến đò ngang nối làng xóm đôi bờ mà còn ngược xuôi đò dọc khá tấp nập. Với những người đã qua tuổi thất thập, ký ức tuổi thơ còn ghi dấu chuyến đò dọc nối Hội An và Tam Kỳ đi suốt đất Quảng Nam với tiếng hò ngân vọng. Còn với người dân Cà Mau hôm nay, đò dọc thay bằng những chiếc canô băng băng lướt sóng từ Năm Căn về Đất Mũi. Ngoài bến tàu Năm Căn tấp nập, các bến ở những thị tứ, những trung tâm xã trên đường về Đất Mũi cũng khá dập dìu khách. Còn với người dân bản địa, bến là nhà bên sông, họ ra đứng trước sàn nước chờ ghe tấp vào đón lên.
Trong tâm trí tôi, những bến sông Lô miệt Tuyên Quang, Hà Giang phảng phất vẻ đìu hiu sơn cước, bến sông Chanh thị xã Quảng Yên nhận ra vị biển trong gió thoảng về. Bến An Cựu ngày nhỏ những bậc đá sao mà cao, rứa mà các o lên xuống nhẹ nhàng, thanh thoát. Bến bên sông Sài Gòn mấy mươi năm trước, lúc chưa có đô thị Phú Mỹ Hưng, mắc võng nằm dưới lùm cây bình bát mát rượi trưa hè. Bến sông Thạch Hãn ngày đã thật xa, sông trong xanh, phượng đỏ rực, râm ran tiếng ve.
Tôi yêu những bến sông làm bớt nhọc nhằn cho mẹ cha. Ở quê tôi ngày ấy, những gánh tranh lợp nhà hay những cành sim làm chất đốt qua mùa đông gió mưa lạnh lẽo, đều được người lớn đi đò lên vùng trung du dùng liềm bứt về. Không có con đò, không có bến đợi, gánh sim, gánh tranh mấy chục cây số đường rừng, đường qua truông cát gian nan chừng nào. Có con đò, chỉ gánh từ rừng xuống bến, từ bến về nhà. Cha mẹ nào cũng tranh thủ hái sim trong nón để chiều về cho các con. Những trái sim rừng ngọt thơm mãi hoài trong trí nhớ thẳm xa.
Cũng bến đò ấy, ba mạ tôi đưa anh em chúng tôi biệt xứ, lưu lạc vào Tây Nguyên một chiều cuối năm. Khi chúng tôi kịp lớn khôn, ba đã bỏ chúng tôi đi mãi. Nhưng ba vẫn về trong tâm trí chúng tôi, mỗi khi tôi hồi tưởng, ba kể chuyện về bài ca Bà mẹ Gio Linh nơi bến sông trước chợ làng, đọng lại tiếng chuông chùa gieo như giọt nước mắt rơi trong vắt.
Bùi Phan Thảo
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này