16:48 - 16/02/2018
Thức giấc nơi rơm rạ
Có tiếng gà gáy eo óc non trưa vừa hắt lên, lẫn tiếng rơi xào xạc của yếm tre cuối làng, Gia Hân thức giấc nhìn thấy sau cánh liếp chái nhà là vệt sáng của ánh ngày và màu xanh của cánh đồng mạ.
Bà cụ Bột vừa hỏi cô cháu gái ngủ trên nệm ổ rơm có đau người không, sau bao năm sống ở nước ngoài, ăn ngon, ở đẹp trong nhà bê tông, tường sơn thếp. Cô phải đi bao nhiêu đường đất, bay ngược gió từ Yonago về quê. Phía tây Hà Nội toàn những ngôi nhà cao ốc chọc trời. Riêng quê cô còn nghèo, mới còn rơm còn lúa. Quê hương của cô còn có bà ngoại. Chiều cháu gái, bà kiếm hơn hai chục lượm lúa nếp phơi phóng từ tháng mười, để tết về, cháu bà được ngủ ổ rơm. Sợi rơm nếp có hơi người nó mềm hơn và thi thoảng phảng phất mùi thơm của lúa. Có hai thứ hương nhà quê, không dứt ra được đó là lúc lúa lên đòng, và vị tương bần thơm mùi đỗ và ngô; thật khó xoá đi như sóng biển. Khi bạn càng đi xa càng lay lắt nhớ, nhớ khi thức giấc ở những chân trời đầy băng tuyết. Gia Hân đã đi học ở xứ người, sang Đông Âu học y tế cộng đồng, rồi dừng lại ở Nhật với cuộc tình vừa chia tay. Nhưng dù có định cư ở Nhật thì hàng năm, vào độ tháng chạp, lòng cô vẫn nôn nóng dành dụm tiền để trở về thăm quê. Cho dù năm tháng ở xứ người, mùa đông đi xúc tuyết thuê ở sân trượt, nặng nhọc vác ván trượt cho du khách; có tuần nhận việc tỉa cành thông trong vườn Yushien. Có tháng đi chạy bàn ăn ở chợ cá Nakaura; đối mặt với lao động nghiêm cẩn chính xác từng phút của người Nhật. Cô từng bị hét vào mặt bao lần cũng không nhớ; nên khi được buông thả cơ thể nằm dài trên ổ rơm quê nhà, Gia Hân quên hết nỗi cơ cực một thời sinh viên đi làm thuê ở xứ người. Những phút giây trống rỗng được lấp đầy ấm áp mỗi khi về quê ngoại. Dù nỗi nhớ này không thể tìm kiếm trong Google, trong từ điển mà chỉ có trong bảo tàng ký ức. Đó là sự dung dị nhất của hồn Việt. Hồn quê phảng phất có mặt ở khắp rổ rá, tre nứa, giần sàng. Trong cái sân có năm cây cau lùn cứ thả hoa li ti trắng xuống chum nước. Cái gáo dừa thuở bố làm cho mẹ uống nước khi đi chợ bán khoai. Bố mất, mẹ sang ở với cô vẫn dặn con lần sau về thăm bà nhớ đi chợ gốm tìm mua một cái bình vôi, kiếm cho mẹ mấy cục vôi, tôi sẵn, rồi đem sang Nhật cho mẹ, thi thoảng nhớ miếng trầu nhai cho bõ quên. Thì ra nỗi nhớ cũng giày vò, day dứt trong cuộc đời người sống từng trải, sâu sắc. Những người sống sâu sắc thường hay đau khổ, dằn vặt hơn người sống vô tư, giản đơn. Gia Hân cũng thuộc tạng người giống mẹ, tinh tế và thích du lịch. Lần này trở về quê một mình, cô hít thở sâu, ngửi mùi tương bần ở mấy cái chum phơi sương thơm mùi đỗ và mùi ngô xay. Bà ngoại vẫn ngồi nhặt từng cái lá dưa héo để muối dưa nén, bên tấm dại thưa đan bằng tre cật đã cũ kỹ. Có lúc dừng tay, bà giã trầu bỏm bẻm nhai. Đêm đầu tiên ngủ màn, Gia Hân ngửi thấy mùi hương trầu y như hồi bé ngủ trong màn với mẹ. Quê nhà là cái mùi trầu cau giăng mắc trong giấc ngủ, bao nhiêu loại nước hoa quý phái cũng không thể thay thế; ngay cả hơi thở của mẹ, của bà cũng phảng phất thơm mùi trầu cau, đâu có cần kẹo cao su hay nước súc miệng Valentine. Quê kiểng là nỗi nhớ bắt đầu từ hơi thở có mùi trầu cau của bà và của mẹ. Nỗi nhớ là tài sản của ký ức trong một đời người. Có người ở làng giàu nhanh nhờ buôn bán bất động sản, vận may tìm đường ra nước ngoài sinh sống. Họ buông bỏ quê nhà, dễ dàng bắt nhịp với cuộc sống hiện đại. Cũng có người bỏ quên nhà quê, nhưng kịp nhặt lại lúc đứng tuổi những ký ức đẹp của mình. Bà Bột bảo tết năm ngoái anh cu Thật đi lính về mua cả một ba lô trầu cau, một cây vỏ da táo, sang nhà bà Bột xin vôi, về đặt lên ban thờ giỗ mẹ. Anh lính tên Thật khóc, nói: “Lúc mẹ sống, nhà nghèo tới nỗi có giàn trầu mà không có tiền mua cau mua vỏ cho mẹ. Mùa vải mẹ ăn trầu vớt vát cái cọng vải khô, mẹ ăn cả chũm cau già”. Giờ có đủ tiền biếu mẹ mua trầu cau, thì mẹ nằm dưới đất kia (*). Cái tết đó thật là tết tình tết nghĩa của xóm thôn, ông già bà cả đều đến ăn trầu cau, trà thuốc hiếu đễ của nhà anh lính tênThật. Gia Hân lắng nghe chuyện dông dài của bà, nó ánh lên phận người nông dân đi tìm đường sinh sống ở đô thị. Ở mấy làng bên kia là đất dự án, ruộng đất bán rẻ như cho, người nông dân ký tên, là có tiền xây nhà bê tông, và trắng tay. Nhớ ruộng lúa và nhớ mùi bùn sẽ là nỗi đau dai dẳng nhất ở thôn quê. Trăng nào tỏ sau một ngày mười sáu? còn ánh sáng thì khuyết mãi, như niềm người nông dân nhớ ruộng. Thôn quê của bà Bột còn khuất sâu trong phía núi Sài Sơn, vẫn còn cau và lúa, vẫn còn chum tương ao cá và thưa thác bèo tổ ong giếng chùa. Con gái ở làng, người lấy chồng ngoại quốc người đi sơn sửa móng tay trên thị trấn Phùng. Quê chỉ còn người già và trẻ dại. Quạnh lắm. “Bà ngoại ơi, con cũng lấy chồng Nhật ở miền biển heo hút vắng người ấy. Con cũng có ít tháng hạnh phúc, có ngày đi câu cá trên biển với chồng, cả ngày đói quá, đang gặm bánh mì thì bị hải âu sà xuống quắp chiếc bánh trên tay. Anh chàng giơ điện thoại chụp ảnh sung sướng cười, còn nàng thì vừa sợ vừa đói”. Và rồi cô tự vấn hạnh phúc là gì mà cả hai không chịu hiểu nhau? Cô đã nhận ra một nét văn hoá khác biệt, ở anh có cách sống rất sòng phẳng, nguyên tắc và người Nhật thì phải thế. Rồi như cốc nước tràn ly, họ chia tay. Gia Hân đã bước một bước trượt hạnh phúc. May sao cô còn quê, để trở về với bà ngoại. Nhớ lần về quê, vài năm trước; bà đi chợ chỉ đủ tiền mua một lạng thịt, đến bữa, cứ vùi xuống đáy bát cơm cho cháu ăn, nói bà ăn thịt chán rồi. Giời ạ, khi ra đi, Gia Hân mua cho bà cân thịt, kho lên rồi treo lên cái quang nhỏ xíu trên bếp cho bà ăn dần. Giấu tiền ở cái đĩa để trầu cau trên ban thờ biếu bà. Nhà quê của bà chỉ cần cái quạt nan mùa hè. Ổ rơm mùa đông, đi qua mấy ngàn đời ông bà ông vải. Gió đồng mát lắm, bà sống đến giờ nhờ gió đồng chứ đâu có cần điều hoà quạt điện. Nhà quê đồng thoáng giếng trong đâu có tật bệnh gì nhiều. Cứ theo cách sống chân quê, ta phải học lại cách dùng thuốc nam chữa bệnh bằng gừng cay và tỏi tía, nhiều thứ lá của núi rừng làm nên món ăn, vị thuốc quý ngàn đời.
Thức giấc, Gia Hân đi tìm mua bình vôi, gốm Chu Đậu, gom lại những câu chuyện của bà đem sang cho mẹ để làm quà quê. Những giọt nước mắt của mất mát sẽ là tài sản vô giá cho mỗi cuộc đời xê dịch mưu cầu no đủ mà dễ gì no đủ trong đời sống tinh thần. Không là tường thành, không là bờ vai nhưng quê nhà còn giếng nước yếm tre, là điểm tựa vững bền khi con người bước trượt, nơi ẩn dật hồn quê, mà không dễ gì giải thích.
Hoàng Việt Hằng
Theo TGTT
(*) ý thơ Lê Thành Nghị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này