08:00 - 16/01/2016
Lê Thiết Cương: ‘Không còn văn hoá thì lấy gì mà cho-nhận?’
Ông nội họa sĩ Lê Thiết Cương là chủ một nhà máy chế biến gỗ, có nhiều nhà, xưởng, cửa hàng trong khu phố cổ Hà Nội thời Pháp thuộc.
Hồi nhỏ được sống cùng ông bà trong một ngôi nhà có nhiều đồ gỗ xưa, hít thở không khí đồ gỗ xưa từ nhỏ nên sự yêu thích và sưu tầm đồ gỗ xưa đến với anh một cách tự nhiên.
– Mỗi cái tủ, cái bàn là một câu chuyện cảm động về nếp nhà của người Việt. Anh đã thấy mình giàu có hơn lên mỗi ngày như thế nào khi sống cùng với những nghệ phẩm của người xưa?
– Gọi tắt là đồ gỗ xưa thôi nhưng chúng liên quan đến nhiều nghề thủ công: mộc, chạm khắc, tiện, khảm trai, sơn mài. Chúng ẩn chứa trong đồ hoạ, nội thất, thiết kế tạo dáng, thư pháp.
Gọi là chuyện văn hoá bởi vì thông qua kiểu dáng của bàn ghế giường tủ, qua những hoa văn, hoạ tiết, tích truyện trên đồ gỗ, qua những hoành phi, câu đối, y môn người ta thấy chữ nghĩa, thấy tâm tính nề nếp gia phong.
Tôi học được từ cổ nhân nhiều bài học thông qua những món đồ gỗ xưa ấy. Quá trình tìm hiểu, thưởng thức vẻ đẹp của chúng làm tâm hồn tôi đẹp hơn, đời sống tinh thần phong phú hơn. Đó cũng là một cách nạp năng lượng cho công việc sáng tạo của tôi.
– Đẹp và xưa, cái nào giá trị hơn?
– Yếu tố xưa đứng thứ hai. Phải đẹp trước đã. Nếu xưa cũ mà không đẹp thì chỉ cần chơi một cục đá trải đường triệu năm tuổi là đủ rồi. Đồ xưa có nhiều kiểu đẹp, tôi sưu tầm kiểu đẹp hợp với mình. Đó là những món đồ giản dị, mộc mạc, “quê mùa”, tinh tế nhưng không cầu kỳ rối rắm.
– Để những bàn, tủ ấy có thể sống tiếp đời sống của chúng, một hoạ sĩ như anh phải có sự am hiểu như thế nào về giá trị sâu xa của mỗi tác phẩm, để có thể truyền lại cho thế hệ mình, và cho hậu thế?
– Tôi chọn cách làm sách. Tôi đi nhiều nước, mua được nhiều sách về đồ gỗ xưa của Tàu, Nhật, Âu Mỹ và chợt nghĩ đồ gỗ xưa của Việt Nam đẹp vậy mà sao không có sách.
Cuốn Lịch 2016 Đồ gỗ xưa Việt Nam chọn lọc chỉ là bước khởi đầu. Tôi biết để làm một cuốn sách về đồ gỗ xưa là một việc khó, ngoài đồ của mình phải có thêm những món đồ đặc sắc ở những bộ sưu tập khác nhưng không phải ai cũng sẵn sàng chia sẻ.
Đồ gỗ xưa là một cuốn sách ảnh nên phần hình ảnh rất cần chăm chút, chưa kể là ghi chú, các bài viết nghiên cứu, dịch thuật và khâu thiết kế. Làm sách cũng là một cách lưu giữ và là cách để giới thiệu nét đẹp của văn hoá Việt đến được với mọi người một cách tốt nhất.
– Nghĩ về cách tạo tác của người xưa, điều gì khiến anh rung động nhất?
– Ở cạnh những người hàng xóm lớn mà cha ông mình vẫn tạo ra được một lối đi riêng biệt, một phong cách. Phải nhìn như vậy mới thấy nghệ thuật Việt hay thế nào.
Ví dụ cùng đề tài tứ linh, tứ quý nhưng cách thể hiện – đục, chạm, đẽo, khắc, tô vẽ – của người Việt khác hẳn người Tàu. Người Tàu tinh xảo, cầu kỳ, kỹ lưỡng, nuột nà. Người Việt mộc hơn, giản dị, thô nhám, gần gũi và đời sống hơn. Tượng chùa và điêu khắc gỗ đình làng thế kỷ 16, 17, 18 là những dẫn chứng tiêu biểu.
Hoặc một ví dụ nữa: đầu thế kỷ 20, người Pháp mang sang những mẫu đồ gỗ đã là chuẩn mực của châu Âu nhưng những người thợ Việt Nam vẫn phải sáng tạo lại, họ bớt chất Pháp, chất Âu đi và thêm mình vào, thêm Á Đông, thêm những chữ thọ, chữ vạn, thêm mai lan cúc trúc vào.
– Làm thế nào để anh có thể bền bỉ gìn giữ ký ức của dân tộc qua nghệ thuật gốm và đồ gỗ, khi mà cuộc sống đang nhấn chìm, bôi xoá đi những gì đẹp nhất của di sản tinh thần dân tộc?
– Qua đồ gốm bạn có thể giữ lại đầy đủ bức tranh chân dung lịch sử mỹ thuật Việt Nam từ Đông Sơn, Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn… Tôi là hoạ sĩ, là người Việt, bản năng nghệ sĩ và lòng yêu nước tự nhiên trong tôi làm tôi yêu thích đồ gỗ và đồ gốm Việt.
Một truyền thống văn hiến hay, đẹp, mấy ngàn năm tuổi, đã có những thời kỳ rực rỡ như thế nhưng không hiểu nguyên do gì mà đời sống tinh thần Việt hôm nay lại thê thảm, nhếch nhác, bê tha làm vậy. Nó đứt đoạn hoàn toàn với quá khứ.
Người Việt hôm nay “rơi” ở đâu ra ấy chứ không phải ở cái gốc “con rồng cháu tiên” nữa. Người nghèo thì đã đành nhưng ngay cả những người thành đạt, giàu có được học hành tử tế cũng vẫn “nhếch nhác” về văn hoá.
Nhà cao to nhưng kiểu cách kiến trúc lẩu thập cẩm, năm cha ba mẹ, tí Pháp tân cổ điển lai tí Ý, tí Arập… Thế mà chơi toàn gỗ lũa, sư tử đá theo mẫu Lion King, đồ gốm Tàu rởm, treo tranh chép tranh nhái hoặc tranh đá quý – thực ra là đá rải đường nhuộm phẩm màu.
Gần 40 năm đổi mới, kinh tế đất nước đã phát triển lên một bậc nhưng để văn hoá phát triển lên dù nửa bậc, có lẽ gấp đôi, gấp ba khoảng thời gian đó cũng chưa chắc đã đủ. Nhưng dẫu sao cũng phải bắt đầu.
Ấy là chưa kể được về kinh tế nhưng lại mất môi trường, mất di sản, mất văn hoá thì có bõ được không? Có nhất thiết phải được theo kiểu đó không? Mất vật chất thì còn hy vọng có lại nhưng mất tinh thần, mất văn hoá, mất truyền thống là mất hết.
– Dành nhiều tâm sức để kết nối các hoạ sĩ, nhà thiết kế với các làng nghề, mong muốn lớn nhất của anh là gì?
Giao lưu văn hoá là cơ chế cho – nhận chứ không phải là được mất. Cả bên cho và bên nhận đều được. Mình phải vẫn giữ được văn hoá truyền thống của mình để giao lưu với người và nhận lại cái hay của người làm giàu hơn cho mình. Tất nhiên muốn nhận, nhận được cái hay thì mình cũng cần phải có năng lực văn hoá. Bản thân mình không có, không còn văn hoá thì lấy gì mà cho, mà nhận?
Với những suy nghĩ đó, trăn trở đó, tôi dành nhiều tâm sức để kết nối các hoạ sĩ, các nhà thiết kết với các làng nghề với mong muốn các làng nghề có nhiều mẫu mới phù hợp với đời sống hiện đại. Người thợ thủ công sống được, làng nghề thủ công còn thì truyền thống còn.
Kim Yến thực hiện Hoàng Tường minh hoạ
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này