12:29 - 14/01/2018
Che khuất bầu trời
Tôi quen em khi thằng con duy nhất của em mới bước vào lớp 1, không gặp em kể từ khi thằng nhỏ vào lớp 5. Tôi quả thật bất ngờ khi thấy nó đi cùng với em bước vào quán ăn.
Thằng nhỏ lớn hẳn khi bước vào trung học, tay chân dài lòng khòng như thừa thãi. Em nói vài câu xin lỗi vì phải đem thằng nhỏ theo trong cuộc hẹn này. Thế là suốt buổi ăn trưa, em cứ nhìn chằm chằm thằng nhỏ, chỉnh sửa nó từng câu chữ, từng thế ngồi, từng nét mặt. Thằng nhỏ từ ngượng ngùng, đến khó chịu rồi đến cuối buổi là cam chịu. Còn em, trong mắt em tôi thấy hiện lên cả nỗi lo sợ lẫn chiếm hữu.
[…]
Tới bao giờ cha mẹ mới ngưng tưởng mình là bóng mát, mà thật ra là bóng tối che khuất cả bầu trời của con? Tới bao giờ cha mẹ mới biết lùi lại và buông xuống cho con được lớn? Không phải chỉ trong các gia đình tan vỡ mà ngay cả khi còn cả đôi, cha hoặc mẹ nhiều khi vẫn luôn làm con khổ đau với những thói lề khắc nghiệt, hay làm con ngộp thở với những chăm sóc vồ vập. Nhiều khi áp lực không đến từ lời nói mà từ ánh mắt buồn bã, cái nhún vai khinh miệt, hay tiếng thở dài chán nản mà đứa con nghẹn ngào không muốn nhớ tới, vì có nỗi khổ sở nào cho con hơn khi làm cho cha mẹ thất vọng buồn phiền.
Trong khi trẻ cần sự chủ động và tự quyết trong đời sống, mức độ tăng dần khi chúng nỗ lực trở nên người trưởng thành, thì nhiều bậc cha mẹ không biết tự điều chỉnh mức độ hỗ trợ hay kiểm soát, mà vẫn tiếp tục dạy con theo kiểu… máy bay trực thăng [helicopter parents]. Từ này do các em vị thành niên tại Hoa Kỳ dùng để mô tả việc cha mẹ kiểm soát như trực thăng bay vần vũ trên đầu, và được ghi lại đầu tiên bởi TS Haim Ginott trong cuốn Cha mẹ và trẻ vị thành niên xuất bản năm 1969. Nó phổ biến đến nỗi đã được đưa vào từ điển vào năm 2011. TS Carolyn Daitch, trưởng trung tâm Điều trị rối loạn lo âu, cho biết loại cha mẹ này tự gánh quá nhiều trách nhiệm cho sự trải nghiệm của con cái, đặc biệt là sự thành công và thất bại của chúng. Theo TS Dunewold, chuyên gia tâm lý lâm sàng, gọi đó là việc chăm con thái quá [overparenting], kiểm soát thái quá [overcontrolling], bảo vệ thái quá [overprotecting] và cầu toàn thái quá [overperfecting] vượt quá trách nhiệm thực tế của cha mẹ.
Ở mỗi lứa tuổi, loại “trực thăng” này lại biểu hiện khác nhau. Nếu trẻ còn ở tuổi nhà trẻ, cha mẹ loại này lúc nào cũng bám sát con, điều khiển mọi hành vi và không bao giờ để con tự chơi một mình thì ở tuổi tiểu học, họ muốn chọn lựa thầy cô cho con theo ý của mình, bắt con chơi với bạn này mà không chơi với bạn khác, làm chuyện này chuyện kia, và gần như thay con làm mọi bài tập ở trường. Ở trung học, thì lên lịch “sinh hoạt ngoại khoá” học hành – tập luyện – thi đấu cho con dày đặc đến nỗi đứa con chỉ có một ao ước lớn lao nhất… là được ngủ. Còn ở đại học, thậm chí có bà mẹ còn đến tận trường đại học của con để “dự giờ,” đánh giá không chỉ bạn bè, mà còn cả giáo sư của con. Họ không biết là mình đang “quạt cánh” vần vũ xé nát bầu trời cao rộng của con.
Chưa biết những đứa con của các bậc cha mẹ muốn kiểm soát từng li từng tí có thể thành công ít nhiều trong cuộc đời hay không, nhưng chắc chắn cái quả chúng nhận được là cả cuộc đời trầm cảm, lo âu và bất mãn. Không những thế, chúng kém năng lực để xoay xở giữa cuộc đời với những thách thức căng thẳng thường xuyên. GS Holly Schiffrin và đồng sự tại đại học Mary Washington, qua nghiên cứu của mình đã thấy trẻ vào đại học thường có mức trầm cảm và lo âu cao hơn nếu cha mẹ của trẻ có thái độ và hành vi kiểm soát quá chặt chẽ. Không chỉ là một vài cơn trầm cảm hay lo âu ngắn hạn, việc “can thiệp thô bạo” của cha mẹ vào đời sống của con cái, nhất là khi chúng đã bước vào giai đoạn cần hiển lộ và học hỏi sự tự chủ có thể làm con suốt đời bị tổn thương tâm lý, như một nghiên cứu kéo dài từ năm 1940 đến nay cho thấy. BS Stafford của hội đồng Nghiên cứu y khoa về sức khoẻ và tuổi già tại đại học London cho biết, việc can thiệp vào sự riêng tư và tự chủ của con cái không những chỉ giới hạn sự độc lập của chúng, mà còn làm chúng kém khả năng điều chỉnh hành vi. Những người được nghiên cứu qua các độ tuổi trải dài từ thiếu niên đến trên 60, đạt mức điểm thấp trên thang đo hạnh phúc lẫn sức khoẻ tinh thần, nếu lúc nhỏ bị cha mẹ xâm phạm quyền riêng tư của mình, ngăn cản không cho có quyền quyết định, và dung dưỡng sự lệ thuộc vào cha hay mẹ.
Thế nhưng tác hại không chỉ xảy ra về phía đứa con. Nghiên cứu của GS Kathryn Rizzo và đồng sự thuộc đại học Mary Washington, cho thấy không phải việc chăm sóc con cái thuần tuý của các bà mẹ, mà thái độ chăm sóc quá mức mới liên quan đến sự căng thẳng, trầm cảm và bất mãn với đời sống. Đa số các bà mẹ gặp những khó khăn về sức khoẻ tinh thần này có niềm tin là chăm con khó hơn đi làm; giữa cha mẹ thì mẹ cần thiết và có khả năng chăm con hơn; niềm hạnh phúc của cha mẹ chủ yếu từ con cái; cha mẹ phải luôn tạo các hoạt động kích thích sự phát triển của con; và cha mẹ phải luôn hy sinh nhu cầu của mình cho con. Những bà mẹ không dám để con cho ai chăm lại kém hài lòng về cuộc sống nhất, còn các bà mẹ cho rằng việc dạy con quá đỗi khó khăn phải cần đến những kỹ năng và kiến thức chuyên gia, thì lại dễ căng thẳng và trầm cảm. Mà càng cố chăm sóc lại càng mang cảm giác tội lỗi là chăm sóc chưa đủ.
Thế nhưng, như chúng ta đã biết qua những thí nghiệm kể trên, việc làm “cây cao bóng cả” che khuất ánh nắng của con lại làm con trầm cảm và bất mãn suốt đời. Có thể nào một bà mẹ không hạnh phúc, căng thẳng và trầm cảm lại có một đứa con hạnh phúc, thoải mái và hưng phấn?
Lê Nguyên Phương (trích Che khuất bầu trời trong Dạy con trong hoang mang 2 – NXB Phụ Nữ ấn hành tháng 1/2017 do Anbooks sản xuất)
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này