10:23 - 21/01/2017
Đẹp nhỏ
Kiểu tư duy bằng bụng của người Việt cũ: bằng mặt – bằng lòng, lòng vả – lòng sung, bụng ta – bụng người, bụng bảo dạ, ôm rơm rặm bụng. Nó thật thà, chất phác. Tình hơn lý. Lòng sông lòng người. Người xóm Trại đối đãi và giao lưu với Lòng Choóng như với một con người.
Mùa cạn đi bộ, mùa nước đi thuyền từ xóm Trại qua Lòng Choóng sang bãi giữa. Đất nước luân chuyển, thuỷ thổ tương khắc mà cũng là tương sinh. Bãi giữa là bãi dâu. Người xó m Trại chỉ có mỗi nghề trồng dâu, nuôi tằm. Còn công việc đồng áng thì vẫn vậy thôi, đời ông, đời cha đến đời con cháu, trôi chảy tự nhiên như nước. Đó chỉ là công việc chứ không phải là nghề. Cày bừa, làm cỏ, bỏ phân, cấy gặt sinh ra là đã tự biết làm. Xóm Trại ở ngoài đê, gần như biệt lập. Chỉ có độ mười mấy nóc nhà và một giáo đường nhỏ. Chùa thôn, chùa xóm thì nhiều, nhà thờ lớn cũng nhiều nhưng nhà thờ xóm như nhà thờ xóm Trại thì thật hy hữu.
Người xóm Trại bao đời nay đã gắn bó với mảnh đất này, với khúc sông bé nhỏ này. Sông và người nương tựa vào nhau, quanh quẩn quây quần, quấn quýt bên nhau. Cũng như họ đã gắn bó với nghề trồng dâu nuôi tằm vậy. Con tằm nhả kén nuôi họ, cho họ cái nhu cầu giản dị cơm ăn áo mặc hàng ngày. Đời người, đời tằm cùng trôi chảy. Phần tinh thần, họ tự nguyện gửi gắm nơi toà giáo đường nhỏ nhoi. Khi mỗi buổi chiều về, cửa mở, nến thắp, chuông gióng, tiếng kinh cầu đều đặn và những bản thánh ca âm ỉ, nhẫn nại cất lên như nhắc nhở họ không phải là về một cuộc sống ảo nào khác mà chính là cuộc sống thật vẫn đang tồn tại với biết bao nhọc nhằn, bất hạnh, khổ đau dằn vặt ngày ngày tiếp nối. Đạo hay Đời?
Sông mẹ gặp bãi giữa sinh ra hai sông con, một lớn, một bé. Nhưng sông bé được ưu ái hơn, được đặt tên riêng. Người xóm Trại gọi sông con là Lòng Choóng. Giàu con út, khó con út. Bất chấp đúng sai, cái bé nhỏ, cái út ít, cái yếu, cái thua thiệt bao giờ cũng được bênh vực, được nâng đỡ, được chăm chút hơn.
Nói chuyện xóm Trại mà không nhắc đến một nhân vật đặc biệt của xóm Trại thì quá thiếu sót. Ông Gia, người lão bộc già trông nom toà giáo đường đã nhiều năm nay. Ngay khi còn nhỏ, một căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi ánh sáng của đôi mắt ông. Nhưng chưa hết, số phận lại một lần nữa khắc nghiệt khi cướp đi của ông người vợ trẻ. Hôm nay, ở tuổi xế chiều, ông đã yên tâm về những đứa con của mình. Ông cũng đã làm tròn bổn phận với Chúa. Đời sống vật chất tuy đạm bạc nhưng với ông là quá đủ, ông không mong ước đầy đủ hơn. Nhưng còn nghĩa vụ với chính bản thân mình?
Xóm Trại, trời đã nhá nhem, ông tiễn tôi ra về, con đường đất nhỏ, không phải là tôi dẫn ông đi mà chính là ngược lại, tôi bám theo ông, người trẻ bấu víu vào người già, người mắt sáng lần bước theo người mù. Bàn chân và đôi tai của ông đã thuộc lòng từng chỗ mấp mô dù nhỏ nhất của con đường nhỏ bé này. Con đường đã trở nên quá đỗi thân thuộc với ông từ lâu rồi. Trời tối mịt, tôi không còn nhìn thấy gì nữa, bỗng ông bước nhanh hẳn lên, rồi thì thào: Tôi thèm có một người đàn bà. Ông nói với tôi hay là tự nói với mình? Cũng không hiểu là câu nói đó có phải chính xác là của ông không? Hay là tôi nghe thấy như vậy và cùng lúc với câu nói đó là những tiếng lanh canh rất đẹp và rộn ràng như một bản nhạc hiệu hoà vào. Ấy là tôi tưởng tượng như thế, chứ có khi đơn giản nó chỉ là tiếng va đập theo bước chân của một chùm rất nhiều chiếc chìa khoá đồng to nhỏ khác nhau của toà giáo đường mà lúc nào ông Gia cũng đeo bên mình.
Từ trên đê, con đường đất nhỏ “vô danh rợp bóng cây” (*) dẫn vào xóm nhỏ có ngôi nhà thờ nhỏ nằm bên dòng sông nhỏ. Nói chính xác đó là con đường được bồi đắp bởi phù sa từ bao mùa nước.
Cuộc sống với biết bao thăng trầm, canh cải, đổi thay. Những người trẻ theo chân nhau bỏ xóm ra đi, họ có những khát vọng khác. Họ liều lĩnh và thích được phiêu lưu. Họ muốn bỏ nhà thờ cũ, xây nhà thờ mới trong đê.
Nhà thờ xóm Trại được xây năm 1938 và hoàn thành năm 1943. Những cụ già hôm nay chính là những người đã cùng cha ông họ đào đất đóng gạch tự xây nên nhà thờ này. Những viên gạch có màu đỏ đẹp lạ kỳ bởi được nung bằng bẹ ngô và cỏ tranh mọc ngoài bãi giữa. Họ không muốn phá bỏ nó. Nhà thờ bé nhỏ không những là biểu tượng tôn giáo đối với họ, mà còn là nơi lưu giữ kỷ niệm và hồi ức. Nó có quá khứ, nó có đời sống, nó có lịch sử. Có thể họ bảo thủ, cũng có thể họ đã tin vào một điều không hoàn toàn đúng nhưng hễ còn niềm tin là còn được sống. Người ta có thể xây một nhà thờ mới cao hơn, to hơn, nhanh hơn nhưng không thể đẹp bằng, đơn giản vì nó không thể có cái quá khứ đó, đời sống đó và lịch sử đó. Chính vì vậy mà tôi thấy họ nói đến bốn chữ giáo đường xóm Trại vừa thành kính, vừa trìu mến.
Nhiều người đã mất, nhiều người đã ra đi đến một vùng đất khác an toàn và dễ kiếm sống hơn, cho dù phải sống ít đi. Chỉ còn lại vài người già, xóm Trại vốn nhỏ bé nay càng bé nhỏ hơn. Buổi lễ chiều với hàng ghế băng ngày một trống trải và thưa vắng dần. Con đường gầy gò dẫn đến xóm Trại có ngôi giáo đường nhỏ nằm nép mình bên Lòng Choóng. Buồn, tủi thân, hiu hắt, cô quạnh nhưng lại thân thuộc và đẹp nữa. Chẳng cứ phải to tát làm gì, nếu đẹp thì dù bé nhỏ cũng là quá đủ để thoả ao ước và mơ mộng rồi.
Giả sử một ngày nào đó, sau bao tan nát, bao thất bại, đắng cay, bao mất mát, bao tủi nhục, bao oan trái, ê chề, bao thống khổ và hoan lạc ta bỗng thèm cảm giác một mình để tự an ủi, tự vỗ về thì khi đó xóm Trại sẽ là nơi ta tìm về.
“Phải đi thôi bởi lối mòn về nhà
mờ dần trong bóng tối,
bởi bóng đêm đang hát một mình:
Nơi này đang sống và chỉ sống mà thôi…” (*)
Hà Nội 7/2004
Tặng những người bạn ở thôn Mai Châu, xã Đại Mạch, huyện Đông Anh, Hà Nội.
(*) Thơ Hàn Thuỷ Giang
Bài, ảnh Lê Thiết Cương
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này