20:24 - 02/11/2016
Câu chuyện đồng bằng thời ‘tìm cơ trong nguy’
Hiện tại, người dân ở miền Tây hiểu tới đâu về biến đổi khí hậu (BĐKH) là câu hỏi lớn còn bỏ ngỏ đối với những vấn đề đặt ra từ hội nghị Mekong Connect 2016.
Ai cũng được “chia phần” hiểm hoạ
Phần lớn cư dân miền Tây đều nghe nói tới BĐKH như một “sáo ngữ”, một số nơi biết được thay đổi chung quanh mình, như những người sống ven biển Cà Mau đã nếm trải cảnh giữa đêm sụp nhà, mưa giông sạt lở đê, nước tràn vô tới giường.
Những nông dân ở Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp phải bơm nước từ kênh đào lên ruộng, nơi mà cách đây 7 – 10 năm, người ta phải dùng xáng múc tôn cao đê bao để ngăn nước tràn đồng.
Nhà vườn Vĩnh Long biết cây trái héo úa, chết dần vì nhiễm mặn trong đợt hạn hán chưa từng có trong 90 năm qua.
Lần đầu, người ta bắt được cá mập trong sông Hậu, loài cá biển hung tợn lạc loài vì đã theo lưỡi mặn (do tỷ trọng của nước biển, phần chìm dưới đáy sông luôn sâu hơn bề mặt) vào sông.
Năm bảy năm trước, dân Cồn Chim, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh đã biết thảm trạng khi thiếu nước và họ được một dự án của Oxfarm hỗ trợ.
Trong khi đó, ở những vùng không được dự án nào hỗ trợ thì phải chấp nhận “đổi nước” với giá 200.000 đồng/m3.
Xưa nay người miền Tây mua nước uống, nước sinh hoạt nhưng họ không bao giờ nói mua nước và người bán không muốn mang tiếng là “bán nước”.
Lúc khốn khó đó, chính quyền lên tiếng và thống kê bao nhiêu ngàn dân thiếu nước, các doanh nghiệp nhào vô tặng bồn chứa, mỗi hộ một bồn 200 lít.
Nhưng ai cũng biết tất cả đã muộn màng vì nước ngọt phải chở từ xa tới và nếu mỗi ngày, một người cần 2,5 – 3 lít để uống, chưa kể nấu ăn thì một gia đình bốn người nhận một bồn chứa chỉ để quay phim, chụp hinh, mát mặt cho công ty làm quảng cáo.
Cũng có doanh nghiệp muốn làm việc nghĩa, đưa ra kế hoạch làm nhà máy lọc nước mặn thành nước ngọt, nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu khi BĐKH lan rộng với những tình huống không thể lường trước được.
Theo các chuyên gia nhận định, mùa khô vừa qua là mối nguy “kép” từ El Nino và từ việc thôn tính, chiếm hữu nguồn nước của các nước thượng nguồn, chủ yếu là Trung Quốc, Lào.
Theo chủ trương của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, sẽ nâng diện tích vụ thu đông để bù mất mát vụ xuân hè.
Trong khi đó, các nhà khoa học kêu gọi nên tính toán lại đất trồng lúa, điều chỉnh mùa vụ vì để có một ký gạo, cần tới 3.500 – 5.000 lít nước.
Diện tích lúa càng lớn thì các tỉnh sẽ rơi vào tranh chấp nguồn nước, khi ai cũng cố gắng bơm rút cho bằng được.
Tương lai không xa khi Thái Lan thực hiện giai đoạn 1 công trình điều thuỷ Kong-Loei-Chi-Mun, sẽ chuyển 4 tỷ m3 từ sông Cửu Long mỗi năm về nội đồng Thái Lan.
Họ sẽ đào kênh nhân tạo chạy song song với sông, vận chuyển nước đến 24 đường hầm dưới lòng sông, mỗi kênh rộng 10m.
Các đường hầm sẽ kết thúc tại hai hồ chứa: Hoài Luang (ở tỉnh Nong Khai) và Ubol Rattana (ở Khon Khaen), cung cấp nước tưới cho khoảng 5.000.000ha tại 17 tỉnh (gấp ba lần diện tích đất trồng lúa của Việt Nam).
Khi họ hoàn thành công trình, lúa gạo vùng đông bắc Thái vốn đã có thương hiệu sẽ khiến cho gạo Việt Nam rơi vào thế cạch tranh khó khăn hơn.
Càng khó khăn, khi nông dân không được định hướng đúng, việc sản xuất chỉ nhắm tới từng vụ chứ không vì mục tiêu bền vững.
Bền vững là một khái niệm khá bấp bênh, theo một chuyên gia của WWF, bền vững đối với nhà khoa học chỉ khoảng mười năm, với cán bộ nhà nước là năm năm theo nhiệm kỳ, còn người làm nông nghiệp thì mùa nào hay mùa nấy, thậm chí lúc nào hay lúc ấy.
Càng tìm kiếm sinh kế từ cây lúa càng nhiều rủi ro khi giá lúa không thể hơn mức bình quân 4.300 – 4.500đồng/kg, nhưng giá vật tư lên vèo vèo và nguy hiểm hơn khi phải mua hàng giả, hàng dỏm và phải trả với hàng thật, hàng có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn.
Tất cả di hoạ của hoá chất thật, giả tồn đọng trên đồng, chảy xuống nguồn nước, pha loãng chia đều cho cư dân. Ai cũng được chia phần hiểm hoạ theo nguồn nước.
Những chuyển động nội tại
Có hai địa phương là Đồng Tháp và Bến Tre có hẳn những chương trình kích hoạt ý thức khởi nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp. Nhưng để những đôi vai khởi nghiệp này có thể gánh vác cái giang san đang mắc nạn này thì chưa có ai.
Bến Tre có thuận lợi là sớm thức tỉnh vào các mũi chủ công đã ráp nhau giải quyết ngành dừa, đưa ra nhiều ý tưởng xử lý chuỗi giá trị cây dừa, nay đã làm được dầu dừa, sữa dừa, than sạch, đất sạch… thay vì bán dừa nguyên trái cho các tàu của Trung Quốc.
Đồng Tháp thì đang xới xáo lại cơ cấu nông nghiệp, xác lập một số mặt hàng nổi bật như gạo, xoài, sen… Đồng Tháp có những doanh nhân làm giàu chuỗi giá trị sau gạo từ làng bột Sa Đéc, sản phẩm từ sen…
An Giang cố gắng thúc đẩy ngành hàng cá, mắm, gạo… Antesco là nơi chú ý ứng dụng nhiều công nghệ phát huy dậu nành rau, bắp non, râu bắp, nhưng riêng sản phẩm cá linh thì nay đâu còn nguyên liệu nữa do thượng nguồn làm đập chặn dòng, nguồn nước nhiễm bẩn nên các loài thuỷ sinh khó sinh sôi như trước nữa.
Đã có lúc dân Tam Nông muốn khoét đồng đưa nước mặn vào nuôi tôm, bất chấp hậu quả nhiễm mặn đất đai chỉ vì thấy giá tôm cao hơn cá lóc, cao hơn sen… nhưng họ đâu biết đó là cách sinh kế mạo hiểm, gậy hoạ cho cả vùng.
Mọi người muốn thay đổi, nhưng mỗi người mỗi kiểu, có những kiểu thay đổi chỉ cho bản thân mình.
Hoàng Lan
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này