09:05 - 09/11/2016
Buồn nhiều hơn vui mùa nước nổi
Mưa trút xuống, vũ lượng làm cho một vùng rộng lớn no nước. Nhưng đập thuỷ điện chắn dòng chính, nếu không có đập có lẽ giờ này chợ Sài Gòn đã đầy ắp thức ăn từ vùng nước nổi. Vậy mà không…
Mùa nước nổi đến với dân vùng biên giới An Giang tính từ ngày nước ngập con đường dẫn từ Vĩnh Nguơn, thành phố Châu Đốc, qua khu chợ Tà Mâu (xã Pund Xang, huyện Praychusa, tỉnh Takeo, Vương quốc Campuchia) bên kia biên giới, cách đây hơn một tháng.
Lúc đó, nhìn cánh đồng ngập nước, chưa ai dám chắc mùa nước nổi thực sự trở lại vùng này.
Anh Thái Quốc Huy, người Châu Đốc, nói hiện thời giá cá linh tại Châu Đốc còn 35.000 đồng/kg. Có một xóm nhỏ khoảng mười gia đình đăng đú, dớn bắt cá linh, mỗi ngày bán ra chợ 10 – 20kg.
Bác Đỗ Khuê, thị dân Cần Thơ, nói rằng vài ngày trước tại chợ Ô Môn, TP Cần Thơ, giá cá linh “già” bán với giá 75.000 đồng/kg.
Cá linh là loài vượt nước mang thông điệp cho mùa nước nổi, dạo tháng 8/2016, giá tại Cần Thơ 12.000 đồng/100g, không có nhiều để cân ký. Với giá đó, nhiều người đã mua phải cá duồng hay cá mồi (loại cá chép non làm mồi cho cá kiểng).
Cá linh giả xuất hiện trong bữa chợ, lên bàn ăn, rất dễ nhận ra do mùi tanh, xương đầu cứng ngắt. Ăn phải cá linh giả vài lần, tới khi ăn được bữa cá linh kho me, canh chua cá linh thiệt với bông súng, bông điên điển mới thấy ngon tới chừng nào.
Mùa nước nổi trở lại, chỉ chuyện con cá linh mà người đời cũng có thể lộng giả thành chân.
Ba mươi năm trước, mùa nước nổi bị thay thế bằng “mùa lũ”, và “chung sống với lũ” là một kế sách nhiều tiền của. Lúc đó, có mùa lũ cướp đi sinh mạng 500 trẻ con vì chết đuối. Lũ từ đâu ra?
Phải chăng lúc đó đã có những dấu hiệu không bình thường trong việc kiểm soát nguồn nước, nhưng vùng hạ lưu chưa nhận ra?
Đến khi nhận rõ nguyên nhân thì vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phải nếm trải một mùa nước kiệt, khô hạn “xanh xương”.
Oái oăm thay, xả đập từ thượng nguồn được không ít người tin sẽ cứu đồng bằng. Tới khi biết các nước thượng nguồn chỉ xả đập để lấy điện thì vùng này hiểu rằng phải tự điều chỉnh, phải tự cơ cấu lại cây trồng vật nuôi, phải tự cứu mình.
Trong khi loay hoay tính toán chuyển đổi, mưa trút xuống, vũ lượng làm cho một vùng rộng lớn no nước. Nhưng đập thuỷ điện chắn dòng chính, nếu không có đập có lẽ giờ này chợ Sài Gòn đã đầy ắp thức ăn từ vùng nước nổi.
Vựa lúa ĐBSCL có khoảng 1,60 – 1,75 triệu ha. Lượng nước sử dụng cho canh tác lúa chiếm tới 60 – 70%. Áp lực đảm bảo an ninh lương thực, gia tăng năng suất, diện tích đất canh tác nông nghiệp… làm cho việc gia tăng các kênh thuỷ lợi, đập chắn ngày càng nhiều.
PGS.TS Lê Anh Tuấn cho biết, tổng chiều dài các con kênh đào ở ĐBSCL trên 91.064km. Con số này lớn hơn hai lần đường xích đạo trái đất (chu vi là 40.075km).
Những công trình thuỷ lợi đại thủ công trong những năm thiếu gạo, những đê bao được vun cao để trồng lúa, không còn chắc chắn như thành trì bảo đảm an ninh lương thực khi nguồn nước cạn kiệt. Thượng nguồn đã giành lấy nguồn nước để làm ra điện và đẩy vùng hạ lưu vào thế bí.
Văn hoá ứng xử của Mekong đã tan rã khi cách sống mạnh được, yếu thua chen vào dòng chảy sinh tồn từng chạy suốt 4.500 cây số qua sáu nước từ cao nguyên Tây Tạng về châu thổ.
TS Tuấn cho biết lưu lượng nước sông Mekong vào mùa khô vừa qua từ thượng nguồn chảy về chỉ còn có 2.500m3/giây. Sắp tới đây, dự án tưới Kong-Loei-Chi-Mun của Thái Lan sẽ lấy mất 1.200m3/giây; dự án tưới Bắc Vientiane của Lào 20.000ha lấy 240m3/giây; dự án tưới VAICO 100.000ha của Campuchia lấy 50m3/giây.
“Vậy lượng nước về Việt Nam còn được bao nhiêu? Làm sao tránh tình trạng thiếu nước trầm trọng vào mùa khô? Mối nguy đã được báo trước cần phải được tính toán lại, trong đó có việc xem lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt cho người dân”, PGS.TS Lê Anh Tuấn, nói.
Mùa nước nổi năm nay không có gì để trữ lại phòng khô hạn, dù các nhà khoa học tiên liệu những bất cập nguồn nước.
Thực ra dòng chảy trên sông Mekong về đến ĐBSCL đã giảm từ năm 2000 đến nay. Đỉnh lũ ở Tân Châu suốt 90 năm qua, thấp nhất vào năm 2015.
Năm 2016, lượng nước đến đồng bằng 2.500m3/giây nhưng ranh mặn đã đến 70 – 75km, có nguyên nhân hai túi trữ nước ngọt: Tứ giác Long Xuyên (480.000ha) và Đồng Tháp Mười (680.000ha) biến mất để có thêm 630.000ha đất lúa, để Việt Nam thoát ra khỏi nước nghèo, sáng danh “cường quốc xuất khẩu gạo”.
Nhưng việc giành quyền kiểm soát nguồn nước từ thượng nguồn chắc chắn làm cho cường quốc xuất khẩu gạo không thể sáng danh mãi. Ba trụ cột của nền kinh tế ĐBSCL dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên là dịch vụ, thuỷ sản và nông nghiệp sẽ lung lay.
Khi tổng kết 30 phát triển vùng Tây Nam bộ, PGS.TS Nguyễn Văn Sánh, giám đốc viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, cho rằng năm 1990, GDP vùng ĐBSCL cao gấp rưỡi TPHCM. 20 năm sau, tỷ lệ này đã đảo ngược, do bất cập về cấu trúc kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực 1 (nông nghiệp).
Những năm đói kém, ĐBSCL là nguồn cung không mệt mỏi lương thực – thực phẩm cho TPHCM và cả nước. Gần đây, các cuộc tổng điều tra cho thấy chỉ riêng năm 1994 – 1999: 229.168 người di cư tìm kế mưu sinh, giai đoạn 2004 – 2009: 733.003 người, 2009 – 2014: 544.909 người. Làn sóng di cư không có dấu hiệu chựng lại.
TS Sánh cho biết: việc ban hành QĐ 593/TTg về “Thí điểm liên kết vùng ĐBSCL” có nhiều câu hỏi chưa có câu trả lời: Tại sao phải liên kết vùng? Liên kết như thế nào? Lúa gạo, trái cây, cá tra, tôm là nền tảng ban đầu để phát triển các đề án liên kết vùng, có biết bao vấn đề đang đặt ra khi nguồn nước thay đổi?
Thực ra, liên kết vùng và những rào chắn vô hình từ nguồn kinh phí mặc định không cho phép các tỉnh triển khai chương trình chung.
Liên kết về thể chế chưa thực hiện được thì có lẽ còn lâu lắm mới có đường ray cho liên kết vùng. Do đó, cách vận hành của các địa phương vùng hạ lưu là mạnh ai nấy làm.
Hoàng Lan
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này