12:32 - 01/03/2017
Mua bình yên hay lo cái chung?
Theo học ngành công nghệ thực phẩm, chương trình song ngữ, ra trường năm 2000, tiếp cận khá sớm và theo đuổi nghiên cứu hoạt động quản lý, phát triển “chuỗi”, Nguyễn Kim Thanh xây dựng tổ chức nghiên cứu tư vấn độc lập Kim Delta, sau gần mười năm “làm thuê”.
– Tư vấn là công việc không dễ ở Việt Nam khi kinh nghiệm luôn là thành trì đối với doanh nhân thành công lẫn thất bại? Là người trẻ làm tư vấn, bà làm sao dùng từ “đã từng”… để tiếp cận?
– Thực ra tôi đã làm thuê từ năm 2000 – 2010, cũng “đã từng” mở công ty sản xuất nước trái cây an toàn. Có vận hành một doanh nghiệp (DN) mới thấy có quá nhiều việc mình không biết, nên cũng đã từng tìm kiếm thông tin “dinh dưỡng” để vun đắp, tự nghĩ ra những chương trình tham vấn, học hỏi để hoàn thiện mình. Tôi đã từng làm “ăn mày” nổi tiếng, cứ coi chỗ nào có chương trình bổ ích là xin theo học hoặc thấy hội chợ thì xin tài trợ chi phí đi – lại… Những chương trình đó lại dẫn dắt tới những duyên cơ khác, tiếp cận nhiều hơn, học hỏi nhiều hơn, và cứ đi như vậy mới thấy DN trong ngành thực phẩm – có lương tâm thì vẫn tồn tại được nếu có tư vấn.
– Cùng một lúc, bà vừa là nhà sản xuất vừa là nhà tư vấn? Đâu là cơ hội vàng cho nhà tư vấn?
– Tôi tự hiểu mình phải làm gì, chứ không thể làm tốt hai chuyện vừa sản xuất vừa tư vấn, nên tôi đã đóng cửa sản xuất cách đây một năm để lo phần tư vấn. Cái nghề này có lắm cái hay, theo tôi, là khi dấn thân vô mới hình dung các bước chuyển đổi, chi phí và tìm lời giải cho vấn đề cốt lõi. Thuận lợi lúc đó là DN quá ít thông tin, dễ làm tư vấn. Có quá nhiều vấn đề mà DN lại rơi vào tình trạng thiếu thông tin, hoặc do thông tin thị trường được diễn giải không đúng. Trong khi đó, lời khuyên hàn lâm gần như không giúp được gì nhiều.
– Cái khó của hoạt động tư vấn là gì?
– Cái khó là tư vấn cho DN thì phải tính được chi phí và lợi nhuận khi chuyển đổi. Còn cái dở của bản thân tôi là do xem nghề tư vấn quá dễ làm, nên lúc đầu mình cũng “hơi bị” kiêu ngạo.
– Làm gì khi thông tin được diễn giải không đúng?
– Tháng 4 năm ngoái, Kim Delta là tổ chức tư nhân đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc họp mời đại diện bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các tổ chức cao nhất ban hành tiêu chuẩn, các NGOs tới nghe tôi trình bày thực trạng của Việt Nam, cam kết chạy dự án với điều kiện phải hỗ trợ về mặt kỹ thuật, những DN có quyền lợi phải góp tiền vô. DN trong nước phải tự giác, phải có kế hoạch, phải cam kết sau bao nhiêu lâu sẽ thực thi các thoả thuận. Có vậy mới mạnh dạn nhận sự hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài.
Sự kiện đó xuất phát từ thực tế Chương trình cải thiện nghề cá. Bao giờ các tổ chức ban hành tiêu chuẩn cho cá nuôi xuất khẩu cũng đều yêu cầu người nuôi phải sử dụng nguyên liệu bột cá từ hoạt động khai thác bền vững. Ở Việt Nam, sao làm nổi? Họ còn vô lý rằng sau năm năm chạy chương trình phải đạt được chứng nhận. Năm năm nay chưa tạo ra được sự thay đổi chẳng qua là chưa nhận được chứng nhận, nếu cứ chạy theo chứng nhận mà không mang lại giá trị nào hết, thực trạng này cần được diễn giải cho đúng. Không chỉ diễn giải cho đúng mà còn phải nói cho người mua hàng biết, khi anh đưa ra yêu cầu như vầy vô Việt Nam phải phù hợp bối cảnh để không trở thành áp lực, nhà tư vấn phải truyền thông cho hai bên hiểu nhau.
– Các bên sẽ thực thi?
– Hiện tại tất cả công ty quốc tế sản xuất thức ăn đồng thuận, ngược lại các DN Việt Nam không thấy nói gì. Mỗi lần mời họp họ có đầy đủ lý do để nói không. Cái dở của DN Việt Nam là chưa thấy vấn đề chung cốt lõi.
– Có quá nhiều vấn đề chung nên thôi thì họ cứ lo chuyện riêng?
– Vấn đề chung là thực phẩm an toàn. Chẳng hạn, khi có người nói cá tra nuôi trên sông và nguồn nước bị ô nhiễm. Phía mua hàng quyết định dừng mua hoặc lưỡng lự, liệu có nên tiếp tục mua thực phẩm từ Việt Nam do những tác động này không, hay thay thế bằng thực phẩm khác? Các DN sẽ đưa ra đủ thứ giấy chứng nhận. Vấn đề không chỉ là môi trường, mà sau đó còn cái gì nữa chứ không dừng lại ở đó. Thông điệp của họ phải được hiểu trong hoàn cảnh của mình, không chỉ một mình DN sử dụng cá trên sông ô nhiễm chế biến xuất khẩu mà còn liên quan tới những hoạt động khác, tới quan điểm phát triển bền vững. Họ đòi hỏi phải có sự tương tác với những tác nhân khác để giải quyết vấn đề chung, chứ anh mang bên mình biết bao nhiêu chứng nhận đạt chuẩn bền vững của Mỹ, châu Âu, thì họ vẫn không mua hàng của anh. Vấn đề là anh không có động thái tích cực, liên kết các tác nhân khác để giải quyết vấn đề ô nhiểm. Nếu chỉ nói chỗ của tui tốt là được rồi, thì thế giới không nhìn như vậy.
Ngược lại, người nói lên sự thật nguồn nước ô nhiễm bị kết tội là do anh đưa tin nên họ không mua. Liệu có thể che đậy nguồn nước ô nhiễm? Người này không nói thì người khác sẽ nói. Bây giờ đi trên sông, vô vùng sâu, vùng xa thấy rác chất đống, phải tự hỏi công tác môi trường đã làm tốt chưa, quy hoạch thế nào? Sao không lo sửa đổi, khắc phục mà cứ nói người ta bôi nhọ, phá hoại, khi nguồn nước đã xấu rồi đâu cần phải bôi nhọ. Hồi học trách nhiệm xã hội ở Đan Mạch, họ nói rằng ở nước mình người ta hay đi cúng chùa, cầu thầy cầu may chẳng qua muốn mua sự bình an trong tâm hồn chứ không tạo ra sự thay đổi, để có sự thay đổi đâu phải làm theo kiểu đó.
– Là người tham gia soạn thảo Bộ tiêu chí HVNCLC – Hội nhập cho ngành thực phẩm, lòng tin của bà về sự thay đổi như thế nào?
– Tiêu chí bình chọn DN hàng Việt Nam chất lượng cao (HVNCLC) đã có hơn 20 năm nay rồi dựa trên sự bình chọn của người tiêu dùng. Trong bối cảnh của Việt Nam hiện tại, an toàn thực phẩm là vấn nạn xã hội. Tôi tham gia cùng các chuyên gia, dựa trên những vấn đề xã hội này xây dựng cơ sở vững chắc về mặt kỹ thuật để tăng lòng tin, tăng giá trị của HVNCLC được bình chọn. Do đó, Bộ tiêu chí HVNCLC – Hội nhập ra đời thực tế dựa trên thành tựu đã đạt được trên 20 năm qua, và tôi tin rằng khi có thêm các yêu cầu về kỹ thuật, phần cứng này sẽ làm cho những giá trị vững chắc hơn.
– Vậy đây là bộ tiêu chí bắt buộc?
– Tôi được biết đây là bộ tiêu chí tự nguyện. Nếu những DN đáp ứng đầy đủ điều kiện an toàn thực phẩm thì xem xét để cấp hạng sao, còn các tiêu chuẩn quy định của Nhà nước là luật thì phải tuân thủ theo luật. Bộ tiêu chí kế thừa những yêu cầu của luật để làm nền tảng, phải an toàn, hợp pháp khi làm thực phẩm, đáp ứng các yêu cầu của luật thì mới được xem xét. Do đó, bộ tiêu chí là sự chia sẻ gánh nặng quản lý nhà nước đối với vấn đề thực phẩm an toàn. Nó có tính kế thừa và chia sẻ.
– Thước đo để chấm như thế nào?
– Bộ tiêu chí này dựa trên ba mức độ: đạt 3 sao khi DN tuân thủ hoàn toàn các quy định của pháp luật đối với sản xuất thực phẩm an toàn, khi đánh giá vẫn dựa trên đánh giá quản lý nhà nước, đồng thời nhận diện được rủi ro từ những điều cần phải tập trung để bảo đảm rằng khi được gắn 3 sao thì hàng đó là hàng an toàn. Chuẩn 4 sao cao hơn vì khi nói về sản phẩm an toàn, DN chỉ nói gói gọn chuyện sản xuất, nhưng chính sách, chế độ của DN đối với người lao động như thế nào trong quá trình tạo r a sản phẩm đó, có gây ra tổn hại nào với môi trường? Có kế hoạch giảm tổn hại và tăng cường các biện pháp tích cực bảo vệ môi trường, đáp ứng được yêu cầu về an sinh xã hội… khi đó sẽ được gắn 4 sao. 5 sao là chuẩn cao nhất của bộ tiêu chí, bên cạnh chuyện nội tại DN vừa sản xuất ra thực phẩm an toàn, vừa có trách nhiệm với môi trường, với người lao động, còn phải xem xét tính bền vững của chuỗi cung ứng, vì trong một chuỗi cung ứng còn nhiều tác nhân tham gia, nếu một mắt xích trong chuỗi gãy, đứt thì anh cũng không tồn tại được. Để đảm bảo được sự bền vững thì những anh đã mạnh rồi sẽ hỗ trợ những mắt xích còn yếu trong chuỗi như thế nào. Như vậy trong chừng mực nào đó 3 sao, 4 sao, 5 sao là nâng cấp, giúp DN hình dung được lộ trình đi tới sự an toàn, bền vững.
– Các DN gánh quá nhiều tiêu chí, tiêu chuẩn, chứng nhận, tiêu chí này áp dụng nguyên tắc “thừa nhận lẫn nhau” hay biệt lập?
– Vấn đề đặt ra, nếu đánh giá toàn bộ tiêu chí sẽ có gánh nặng về thời gian, chi phí. Trong khi đó, có DN đạt một mức gắn sao nào đó thì trước đó họ cũng chịu nhiều đánh giá. Do đó, chúng tôi muốn sử dụng các kết quả đánh giá trước đó và phần đánh giá của mình là thẩm tra lại, đánh giá cho những vấn đề có tính chất quyết định đối với sự an toàn của thực phẩm hoặc sự bền vững. Cách thừa nhận lẫn nhau có thể giảm nhẹ áp lực chứng nhận với DN. DN luôn nhìn mình như thực thể độc lập, nhưng bây giờ là thời của liên kết, phải ngồi lại với nhau, cùng hướng tới an toàn, bền vững, kể cả các tổ chức chứng nhận.
Hoàng Lan thực hiện, ảnh: Đỗ Khuê
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này