09:56 - 28/03/2016
Chưa rõ quyền khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
Trường hợp nào người dân được khai thác thông tin của người khác? Trường hợp nào cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có quyền từ chối yêu cầu trên?
Theo nghị định 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 (quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật Căn cước công dân – có hiệu lực từ 15/2/2016), công dân sẽ được khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Thế nhưng được khai thác như thế nào thì vẫn chưa có quy định rõ ràng.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tập hợp thông tin cơ bản của tất cả công dân Việt Nam được chuẩn hoá, số hoá, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ tầng thông tin để phục vụ quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tài sản quốc gia, được Nhà nước bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, nhằm kết nối, chia sẻ dữ liệu về dân cư như cơ sở dữ liệu về cư trú, cơ sở dữ liệu căn cước công dân, cơ sở dữ liệu hộ tịch… và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác, các hệ thống thông tin chuyên ngành của các cơ quan nhà nước trong và ngoài Bộ Công an trên cơ sở số định danh cá nhân.
Chính vì thông tin của công dân được xâu chuỗi, kết nối với nhau, được quản lý thống nhất trong cả nước nên sẽ giúp cung cấp chính xác, kịp thời thông tin cơ bản về dân cư phục vụ công tác quản lý nhà nước, đơn giản hoá về mặt giấy tờ, tạo nền tảng để cung cấp dịch vụ công trực tuyến, giảm bớt thủ tục hành chính có liên quan đến xác thực thông tin cá nhân.
Điều này mang lại lợi ích cho cả phía cơ quan quản lý nhà nước và người dân, giúp tiết kiệm thời gian, công sức khi tham gia vào các giao dịch, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư vào Việt Nam…
Ví dụ, công dân thực hiện các thủ tục hành chính như đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kết hôn, đăng ký giao dịch bảo đảm… thì xuất trình chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính sẽ cung cấp ngay thông tin cho bạn khi giải quyết.
Có thể nói, việc quản lý nhà nước bằng dữ liệu điện tử là một điều tất yếu trong điều kiện kinh tế – xã hội và khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, chậm nhất từ ngày 1/1/2020, Việt Nam mới có thể thực hiện thống nhất Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, do các địa phương phải chuẩn bị các điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, vật chất, kỹ thuật và người quản lý căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân…
Song về mặt pháp lý, tôi cho rằng nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 chưa làm rõ quyền khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Theo quy định, công dân được quyền khai thác thông tin của mình thông qua việc giải quyết thủ tục hành chính, văn bản yêu cầu khai thác thông tin hoặc thông qua dịch vụ viễn thông.
Đối với các thông tin của người khác, để khai thác thì người yêu cầu phải có văn bản yêu cầu và được sự đồng ý của cơ quan quản lý nhà nước và phải trả phí.
Việc khai thác thông tin phải bảo đảm bí mật nhà nước, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của công dân.
Trong khi khoản 4 điều 7 luật Căn cước công dân 2014 nghiêm cấm hành vi không cung cấp, cung cấp không đầy đủ, cung cấp trái quy định của pháp luật thông tin, tài liệu về căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân; lạm dụng thông tin về công dân gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, trường hợp nào người dân được khai thác thông tin của người khác? Trường hợp nào cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có quyền từ chối yêu cầu trên?
Tôi cho rằng chúng ta cần làm rõ các vấn đề trên mới giúp khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư một cách hiệu quả nhất, đạt được mục tiêu đề ra.
Theo quy định tại điều 9 luật Căn cước công dân 2014, thông tin về công dân được thu thập, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư bao gồm họ, chữ đệm và tên khai sinh; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; nơi đăng ký khai sinh; quê quán; dân tộc; tôn giáo; quốc tịch; tình trạng hôn nhân; nơi thường trú; nơi ở hiện tại; nhóm máu, khi công dân yêu cầu cập nhật và xuất trình bản kết luận về xét nghiệm xác định nhóm máu của người đó; họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số chứng minh nhân dân, quốc tịch của cha, mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp; họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số chứng minh nhân dân của chủ hộ, quan hệ với chủ hộ và cuối cùng là ngày, tháng, năm chết hoặc mất tích.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu (phó chủ tịch hội Luật gia TPHCM)
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này