09:11 - 28/10/2016
Nhập than – bất an năng lượng
Việc nhập khẩu số lượng lớn than trong thời gian vừa qua và trong tương lai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư, mở rộng của TKV, vì khi đó ngành than khó có nguồn lực để tái đầu tư nâng cao năng lực.
Mặc dù ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng Việt Nam (Bộ Công Thương) trấn an rằng than nhập khẩu không tác động lớn đến bảo đảm an ninh năng lượng nhưng và theo nhiều chuyên gia, việc nhập than có thể sẽ tạo ra hệ luỵ trong tương lai.
Báo cáo của Tổng cục Hải quan cho thấy, tính đến 15/9, tổng lượng nhập khẩu than đá đạt 10,1 tấn với kim ngạch 629,5 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu than chỉ đạt hơn 730.000 tấn, thu về 73,8 triệu USD, giảm 48% về lượng và hơn 51% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Mặt hàng than đá xuất khẩu được liệt vào nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm nhanh, nhiều nhất trong 9 tháng qua.
Tại buổi tọa đàm trực tuyến “Nhập khẩu than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia”, ông Thọ lý giải: Do nguồn than trong nước không đáp ứng và giá than nhập khẩu rẻ hơn giá than khai thác trong nước.
Nguyên nhân giá than trong nước cao hơn do kỹ thuật khai thác than, đa số mỏ khai thác ở dưới sâu, thậm chí âm 300 m so với mực nước biển, chi phí khai thác mỏ lộ thiên với hệ số bóc đất đã tăng gấp 3 lần làm tăng chi phí sản xuất, giá thành sản xuất than trong nước.
Bên cạnh đó, than trong nước cũng chịu tác động bất lợi từ cơ chế chính sách về thuế như 1/7/2016, thuế tài nguyên môi trường tăng trung bình 3 lần nếu tính tiền cấp quyền khai thác, bản chất cũng là thuế tài nguyên tăng hơn 10%, cao hơn mức trung bình 7%.
Theo quan điểm của ông Thọ, con số than nhập khẩu lên đến 10,1 triệu tấn không hoàn toàn là “vỡ trận” mà vẫn dựa theo nhu cầu phục vụ sản xuất trong nước.
Tuy vậy, việc nhập khẩu số lượng lớn than trong thời gian vừa qua và trong tương lai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư, mở rộng của TKV.
Bởi nếu không kinh doanh hiệu quả ngành than khó có nguồn lực để tái đầu tư nâng cao năng lực, hiệu quả như mục tiêu mà chính phủ đề ra.
Một thách thức lớn với ngành than đó là tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 khoảng 269.003 tỷ đồng, bình quân 17.934 tỷ đồng/năm.
Theo ông Biên, để khắc phục tình trạng than tồn kho tăng, xuất khẩu chậm TKV kiến nghị Thủ tướng cho xuất khẩu thêm từ 2 – 4 triệu tấn/năm từ 2017 – 2020 các loại than cao cấp, có giá trị mà trong nước không sử dụng để giảm tồn kho trong nước.
“Hiện toàn ngành tồn kho 12 triệu tấn than, trong đó các DN thuộc TKV là 11 triệu tấn. Tồn kho lớn, giá than trong nước cao ảnh hưởng đến sản xuất của ngành than, đặc biệt là việc làm của lao động toàn ngành”, ông Biên thừa nhận.
Tuy nhiên, đó có lẽ chỉ là giải pháp tình huống giúp ngành than qua cơn bĩ cực. Về căn cơ sẽ phải có giải pháp để huy động nguồn lực đầu tư nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh để đáp ứng nhu cầu trong nước và giảm phụ thuộc nhập khẩu để đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài.
Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này