10:09 - 11/10/2017
Vấn đề: Xử lý tro, xỉ than nhiệt điện không đơn giản
Giải pháp để giải quyết một phần tác động của tro xỉ từ nhà máy nhiệt điện than là biến chúng thành vật liệu xây dựng; tro tuyển làm phụ gia bêtông, xỉ làm phụ gia ximăng, vật liệu gia cố nền, vật liệu san lấp, làm gạch không nung, gạch bêtông nhẹ, gạch bêtông chưng áp…
Sản xuất ra 1 kWh điện bằng nhiên liệu là than cám sẽ thải ra 0,9 – 1,5kg tro xỉ; để có 1MW điện cần đến 4 tấn than và sẽ thải ra khoảng 1 tấn tro xỉ, điều đó dẫn tới hệ luỵ đáng sợ.
Sử dụng tro xỉ trong xây dựng
Một nhà máy nhiệt điện công suất 1.200MW vận hành trong năm năm sẽ phát thải 5 triệu tấn tro xỉ và cần 30ha để chôn lấp. Ông Đinh Quốc Dân, phó viện trưởng viện Khoa học công nghệ xây dựng thuộc bộ Xây dựng cho biết, bãi thải của các nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động chiếm đến 709ha và dự kiến sau năm 2020 tổng diện tích bãi thải là 1.895ha. Khối lượng phát thải này đang tạo sức ép rất lớn lên môi trường và chiếm diện tích đất để tồn chứa ngày càng lớn.
Tro xỉ không có biện pháp tiêu thụ, xử lý sẽ dẫn đến chi phí sử dụng đất, chi phí làm bãi chôn lấp, chi phí xử lý tro xỉ, vận hành bãi thải sẽ tiêu tốn cả ngàn tỉ đồng mỗi năm, càng đáng sợ hơn khi chôn lấp “ bí mật” hay công khai vào môi trường sống.
Vậy mà ông Châu Văn Thành, phó giám đốc công ty TNHH Hoàng Sơn Fly Ash and Cement, nói công ty đã phải mua xỉ than từ các nhà máy nhiệt điện, mỗi năm khoảng 100.000 tấn, giá 23.000 – 25.000 đồng/tấn. Khách hàng tiêu thụ của Hoàng Sơn là các nhà máy ximăng, trạm trộn bêtông…
Theo ông Thành, công ty Hoàng Sơn đang đầu tư dây chuyền tuyển tro bay công suất 900.000 tấn/năm tại KCN Long Hậu, Long An, sử dụng công nghệ Đức và nhà máy gạch không nung công suất 15 triệu viên/năm. Tổng vốn đầu tư 310 tỉ đồng.
Việc sử dụng tro bay vào việc sản xuất ximăng, trạm trộn bêtông phải có những đơn vị am hiểu mới đầu tư được, nếu không sẽ như con dao hai lưỡi, theo ông Thành.
“Hiện nay, 90% xỉ than phải chôn lấp. 10% được sử dụng và có sáu vấn đề trong xây dựng: 1/ Chất lượng vật liệu tái chế chưa ổn định, giá thành chưa cạnh tranh; 2/ Các vấn đề về môi trường chưa giải quyết triệt để tạo tâm lý lo lắng cho xã hội; 3/ Đặc điểm tro, xỉ, thạch cao có những hạn chế nhất định so với vật liệu truyền thống; 4/ Hiệu quả đầu tư chưa rõ, các đơn vị tham gia chưa có chính sách ưu đãi từ Nhà nước; 5/ Thiết bị thi công, xử lý lựa chọn phối liệu chưa hoàn thiện; 6/ Chi phí vận chuyển cao”, theo ông Đỗ Hoàng Linh, phòng kỹ thuật công nghệ tổng công ty Ximăng Việt Nam.
“Trong một cấp phối bêtông, nếu sử dụng tro bay nguyên khai với chất lượng không đồng đều, tỷ lệ tro bay thay thế ximăng chỉ từ 10 – 12% tính trên một khối bêtông. Tuy nhiên, nếu sử dụng tro bay tuyển lọc đạt chuẩn, tỷ lệ đó sẽ tăng lên từ 17 – 25%. Nhưng chất lượng tro bay ở các nhà máy không ổn định”, ông Thành nói.
Ác mộng nhiệt điện tại ĐBSCL
Tại ĐBSCL hiện có ba cụm nhiệt điện bao gồm: nhiệt điện Duyên Hải, nhiệt điện Long Phú và nhiệt điện Sông Hậu, trong đó các nhà máy đang vận hành là nhiệt điện Duyên Hải 1, 3 với tổng công suất lắp đặt là 1.445MW, hàng năm thải ra khoảng 1,8 triệu tấn tro, xỉ. Cũng theo quy hoạch VII hiệu chỉnh, dự kiến đến năm 2020 sẽ có thêm các nhà máy nhiệt điện Long Phú 1, 2; Sông Hậu 1, 2; Duyên Hải 3 mở rộng hoạt động, nâng tổng công suất phát điện lên 5.505MW, mỗi năm tiêu thụ khoảng 16,52 triệu tấn than và thải ra khoảng 4,13 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao. Từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm chín nhà máy hoạt động, tổng công suất phát điện 18.225MW, mỗi năm tiêu thụ khoảng 54,68 triệu tấn than và thải ra môi trường khoảng 13,67 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao.
Việt Nam hiện có 21 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, tiêu thụ khoảng 45 triệu tấn than/năm, thải ra hơn 16 triệu tấn tro xỉ, thạch cao và tổng diện tích các bãi thải xỉ sẽ vô cùng lớn. Trong số các nhà máy này, có 13 nhà máy sử dụng công nghệ lò đốt than phun và tám nhà máy sử dụng công nghệ lò hơi tầng sôi tuần hoàn.
Tới năm 2020, có thêm 12 dự án nhiệt điện than hoạt động (đang trong quá trình xây dựng) và tổng công suất lắp đặt nhiệt điện than là 24.370MW, tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn than. Tổng lượng tro bay, xỉ đáy lò phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện đến năm 2020 ước khoảng 22,6 triệu tấn/năm.
Ông Trương Quang Hoài Nam, phó chủ tịch UBND TP Cần Thơ, nói rằng ĐBSCL mới vận hành một nhà máy từ năm 2016 và 2017, mỗi năm thải ra 1,8 triệu tấn tro, xỉ. Tới năm 2020 lượng tro xỉ vào khoảng 4,13 triệu tấn và đến năm 2030, khi tất cả chín nhà máy ở ĐBSCL hoạt động, thải ra khoảng 13,6 triệu tấn. Ông Nam lo ngại về môi trường, ô nhiễm nguồn nước, về đời sống của người dân đồng bằng khi lượng tro, xỉ than này không được xử lý đến nơi đến chốn.
Do đó, việc đẩy mạnh xử lý, sử dụng một lượng lớn tro, xỉ, thạch cao là yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Chính phủ, cũng như các bộ, ngành, các địa phương nơi có nhà máy điện than, đặc biệt đối các doanh nghiệp sản xuất điện than, theo ông Bùi Phạm Khánh, thứ trưởng bộ Xây dựng.
“Thói quen sử dụng gạch, bêtông, ximăng từ nguồn xỉ than, tro bay chưa được rộng rãi”, ông Trần Anh Dũng, phó chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, nói. Lâu nay nhiều người sợ tồn dư kim loại nặng ảnh hưởng sức khoẻ. Dù có nhiều bất an, nhưng vật liệu chứa xỉ than vẫn sẽ tồn tại trong ngôi nhà bạn. Khi người bán không mạnh dạn ghi “vật liệu có xỉ than từ nhà máy nhiệt điện chạy than” trên sản phẩm thì bạn có quyền nghi ngờ về tình trạng lập lờ đánh lận. Có nên mua những sản phẩm mà bạn còn nghi ngờ?
Những hạn chế của tro xỉ
Các sản phẩm tro xỉ (fly ash) có những đặc tính khác nhau tuỳ thuộc vào chúng được sử dụng ở đâu và được thu vào như thế nào. Vì lý do đó, các ứng dụng tro xỉ gặp phải sự chống đối của những nhà xây dựng truyền thống, do
xu hướng kết tinh cùng với những lo ngại chính về sức bền trong thời tiết đóng và tan băng.Những lo ngại quan trọng khác bao gồm:
– Lực chịu đựng thấp hơn.
– Tính hạn chế đối với thời tiết.
– Tăng không khí trong các hỗn hợp.
Những thuận lợi của tro xỉ
Tro xỉ có thể là một dạng nguyên liệu thay thế ximăng Portland có hiệu quả về mặt chi phí ở một vài thị trường.
Ở Mỹ hơn năm 50% bêtông có chứa tro xỉ. Ngoài ra, tro xỉ còn được thừa nhận là một sản phẩm thân thiện
môi trường, vì nó là một phó phẩm. Hơn nữa, tro xỉ cũng tiêu hao ít nước hơn ximăng Portland và dễ sử dụng trong thời tiết lạnh. Những lợi ích khác bao gồm:– Đạt cường lực cao tuỳ vào việc sử dụng.
– Có thể sử dụng như một chất cấp phối.
– Có thể thay thế ximăng Portland.
– Cho ra bêtông đặc hơn và bề mặt mịn hơn.
– Tính khả thi cao.
– Giải quyết các vấn đề rạn, thấm và rỉ ẩm.
– Giải quyết nhiệt do tích nước.
– Tiêu tốn tỷ lệ nước/ximăng thấp hơn so với không phối tro xỉ.
– Giảm phát thải CO2.
Ngọc Hiệp – Vân Anh
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này