12:38 - 28/11/2016
Tư duy công nghiệp của VN vẫn dừng lại ở mấy chục năm trước
Ông Vũ Thành Tự Anh, giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho rằng tư duy công nghiệp của VN vẫn dừng lại ở mấy chục năm trước.
Đó là việc chọn nhiều ngành công nghiệp ưu tiên một cách duy ý chí, sau đó chọn doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo trong những ngành ưu tiên này
Đến khi có những Vinashin, Vinalines… thua lỗ thì xử lý với chi phí lớn. Trong khi nếu nhìn vào cơ cấu sản xuất công nghiệp thì trên 50% là từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sau đó là tư nhân và cuối cùng là Nhà nước.
Trên 85% giá trị sản xuất công nghiệp đến từ FDI và tư nhân, nhưng chính sách vẫn dựa vào doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Không thể tiếp tục với tư duy cũ
– Chúng ta đang nói câu chuyện phải thay đổi tư duy. Vậy ông đã thấy điều đó hay chưa khi ngành ôtô không đạt tỉ lệ nội địa hóa nhưng vẫn được xác định là ngành kinh tế chủ lực?
– Với những điều chỉnh chính sách gần đây, tôi tin Chính phủ đã nhận ra rằng không thể tiếp tục với tư duy và cách làm cũ. Tuy nhiên, tư duy và cách làm mới như thế nào vẫn đang dò dẫm.
Trong khi đó, một điều rất đáng lo ngại là ngày càng thấy bóng dáng của nhóm lợi ích bất chính trở nên đậm nét trong các chiến lược, quy hoạch công nghiệp.
Ví dụ như với công nghiệp thép, Việt Nam muốn có ngành thép cạnh tranh, tạo nền tảng cho công nghiệp trong nước, giảm giá thành đầu vào cho các ngành khác như luyện kim, chế tạo máy, xây dựng dân dụng và công nghiệp phụ trợ.
Mục tiêu này hoàn toàn hợp lý, song cách thức đạt được mục tiêu này thông qua những dự án như Formosa hay Cà Ná lại lợi bất cập hại.
Với những “khuyến khích ngược” về trợ cấp và môi trường như hiện nay, nhiều DN thép chỉ tồn tại được khi được trợ cấp toàn diện đầu vào như dự án thép Cà Ná, được bảo vệ đầu ra nhờ chính sách tự vệ thương mại và không phải trả đủ chi phí ô nhiễm môi trường như Formosa.
Tương tự là ngành lắp ráp ôtô với nhiều đặc quyền đặc lợi cho những DN lớn, loại bỏ DN nhỏ và vừa (DNNVV) ra khỏi thị trường. Thêm vào đó, việc đặt ra rất nhiều điều kiện kinh doanh đã cản trở việc gia nhập thị trường, vô hình trung tạo ra lợi thế độc quyền của các DN hiện hữu.
– Việt Nam có tới 97% DNNVV, theo ông, nên dựa vào đối tượng DN nào để không bị bỏ lại trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4?
– Về phía các DNNVV, thực trạng đáng buồn là quy mô trung bình của khu vực này đã và đang suy giảm đáng kể về cả lao động và vốn.
Điều họ cần nhất không phải là trợ cấp hay giảm thuế mà quan trọng hơn, trước tiên cần công nhận vai trò trụ cột của họ trong nền kinh tế. Tức là mối quan hệ giữa Nhà nước và DN cần phải được thay đổi căn bản để DN dân doanh không phải là “con ghẻ”, trong khi DNNN là con đẻ, FDI là con nuôi.
Từ nhận thức này mới có thể có sân chơi bình đẳng và minh bạch, DNNVV mới không bị trói chân trói tay khi cạnh tranh, nhờ đó phát triển năng lực để trở thành nhà cung ứng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Biện pháp “trợ cấp” thiết thực và hiệu quả nhất của Nhà nước là xây dựng một hệ thống GD-ĐT và dạy nghề tương thích với xu thế công nghiệp hiện đại, tức là tạo ra lực lượng lao động có khả năng tiếp thu công nghệ mới, có thể thích nghi linh hoạt với môi trường biến động và có năng lực áp dụng sáng tạo tri thức và công nghệ mới.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các hiệp hội cần hỗ trợ DN trong việc tiếp cận thông tin. Trong thế giới ngày nay, thiếu thông tin đồng nghĩa với mất cơ hội. Đơn cử như các DN xuất khẩu tôm cá ở đồng bằng sông Cửu Long luôn phải đối diện với rất nhiều rào cản kỹ thuật và hầu hết phải tự bơi.
Nếu họ được tiếp cận những thông tin này và các tiêu chuẩn mới được giám sát chặt chẽ thì đã tránh được nhiều trường hợp hàng bị trả lại, gây mất uy tín tại nhiều thị trường xuất khẩu.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (công nghiệp 4.0) là một thuật ngữ với nội hàm bao gồm một loạt công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet của vạn vật và Internet của các dịch vụ tương tác với nhau và với con người.
Cải cách về năng lực thể chế
– Vậy sự thay đổi trong tư duy nếu có ở Việt Nam, theo ông, điều cần thiết nhất là gì?
– Đầu tiên cần hiểu rằng trong khi thế giới đang tiến đến cuộc cách mạng công nghiệp giai đoạn 4 thì về cơ bản, Việt Nam vẫn chủ yếu ở giai đoạn 2 – tức là dây chuyền gia công, lắp ráp.
Mục tiêu của chiến lược và chính sách công nghiệp vì vậy là bắt kịp xu thế toàn cầu để không bị “lỡ tàu” một lần nữa.
Rõ ràng khi thế giới đang thay đổi liên tục bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chúng ta phải thay đổi tư duy và thực hiện để thích nghi với cuộc cách mạng này. Đó là cải cách về năng lực thể chế, cách ra chính sách, thực hiện quy hoạch và chiến lược.
Về mặt thể chế, cần phân định rõ rệt vai trò của thị trường và Nhà nước. Thông điệp Nhà nước chỉ làm những gì mà DN không muốn làm hoặc không thể làm cần được tuân thủ, để tạo điều kiện cho tư nhân được tham gia mọi hoạt động kinh tế.
Chẳng hạn như tại sao Nhà nước vẫn phải cố giữ các DNNN trong những ngành như dệt may, cao su hay sữa?
DN là lực lượng tiên phong trong cuộc cách mạng công nghiệp này, vì vậy muốn thành công thì phải có nhiều DN có năng lực cạnh tranh.
Nguyên lý là môi trường kinh doanh nào sẽ tạo ra DN có năng lực cạnh tranh ấy, vì vậy không thể cứ tiếp tục biệt đãi một số tập đoàn nhà nước và tư nhân, mà phải khuyến khích cạnh tranh bình đẳng.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng sẽ tạo ra những loại hình kinh doanh mới mà chính sách chưa theo kịp để quản lý. Có cách nào dung hòa giữa quản lý và thúc đẩy khởi nghiệp?
Rõ ràng cần phải chấp nhận thực tế là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sẽ tạo ra nhiều loại hình kinh doanh mới như Uber, Facebook, Airbnb…
Thay vì để những DN đó tồn tại ngoài vòng pháp luật thì cần chấp nhận và đưa vào đối tượng điều tiết, từ đó có biện pháp thích hợp để thu thuế và đảm bảo lợi ích người lao động, khách hàng.
Theo Tuổi Trẻ
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này