17:04 - 05/10/2018
Xu hướng mới: Sản xuất nhựa thân thiện môi trường
Ước tính mỗi năm Việt Nam sử dụng và thải bỏ khoảng hơn 30 tỷ túi nilông/năm. Riêng ở khu vực đô thị, lượng nhựa là túi ni lông khoảng 10,48 – 52,4 tấn/ngày.
Tại các siêu thị lớn, trung tâm thương mại, chợ truyền thống… túi nilông vẫn được ưu tiên hàng đầu trong việc chứa đựng hàng hóa. Cụ thể, ước tính mỗi năm Việt Nam sử dụng và thải bỏ khoảng hơn 30 tỷ túi nilông/năm. Riêng ở khu vực đô thị, lượng nhựa là túi ni lông khoảng 10,48 – 52,4 tấn/ngày.
Đồng thời, chỉ khoảng 17% số túi nilông được thường xuyên tái sử dụng, số còn lại đều bị thải bỏ sau khi dùng một lần.
Đây là thông tin cho biết tại hội thảo “Đầu tư xử lý chất thải nhựa ở Việt Nam, cơ hội và thách thức” do Hiệp hội Nhựa Việt Nam và Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam tổ chức ở TP.HCM, ngày 5/10.
Hiện nay, đồ dùng và sản phẩm nhựa đã trở thành vật dụng phổ biến trong gia đình người Việt. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế thì số lượng chất thải nhựa cũng tăng lên đáng kể. Nhiều báo cáo cho thấy Việt Nam đứng trong top các nước dẫn đầu về chất thải nhựa.
Trong đó, chất thải nhựa phổ biến thải ra sông, ao, hồ… gây ô nhiễm môi trường do đặc tính bền vững, hàng trăm năm mới bị phân hủy. Còn nếu đốt thì gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ con người, cũng như ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
Theo ông Võ Tuấn Nhân – Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường, chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030, tập trung các biện pháp hướng tới mục tiêu nâng tỷ lệ chất thải rắn được thu gom, tái chế, tái sử dụng để giảm dần sản xuất và sử dụng túi, bao gói khó phân hủy (trong đó có nhựa và túi ni lông). Đồng thời, nghiên cứu sản xuất các loại túi, bao gói dễ phân hủy trong tự nhiên thay thế túi, bao gói khó phân hủy.
Cụ thể, đến năm 2020, tại Việt Nam sẽ giảm 65% khối lượng túi nilông khó phân hủy sử dụng tại các siêu thị, trung tâm thương mại; giảm 50% khối lượng túi nilông khó phân hủy sử dụng tại các chợ dân sinh; thu gom và tái sử dụng 50% tổng số lượng chất thải túi nilông khó phân hủy phát sinh trong sinh hoạt so với 2010.
Trên thực tế, tại Việt Nam đã xuất hiện ngày càng nhiều các sản phẩm nhựa thân thiện môi trường nhưng độ phủ trên thị trường chưa phổ biến. Tính đến tháng 5/2018, có 43 sản phẩm của 38 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận túi nilông thân thiện với môi trường.
Nhìn chung đã có những cơ sở pháp lý mang tính chất định hướng cho việc quản lý chất thải túi nilông từ khâu phát sinh (phát thải), giảm phát thải cho đến xử lý chất thải thân thiện môi trường thay thế túi nilông khó phân hủy. Tuy nhiên, chính sách kiểm soát ô nhiễm môi trường do túi nilông khó phân hủy ở Việt Nam chưa hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện còn vấn đề.
Ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho hay, không quốc gia nào từ bỏ ngành nhựa và cũng không quốc gia nào không quan tâm đến tái chế nhựa, nhưng vấn đề là tìm ra hướng đi vừa đảm bảo quyền lợi doanh nghiệp vừa bảo vệ môi trường, an toàn cho người sử dụng.
Dư địa trong ngành nhựa tại Việt Nam rất lớn, nhưng 80% nguyên liệu nhựa nhập khẩu nên làm sao để điều tiết ngoài những giải pháp xây dựng chiến lược phát triển cho ngành nhựa.
Trong đó, cần chú trọng kêu gọi các nhà đầu tư và doanh nghiệp nội địa đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nguyên vật liệu trong nước. Hiện tại, các đơn vị sản xuất tại Việt Nam chỉ làm nguyên liệu đầu cuối nên dẫn đến phục thuộc nước ngoài. Vấn đề thứ hai cần quan tâm là thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm tái chế bằng cách tạo ra thói quen sử dụng và phân loại đầu nguồn, để tận dụng hiệu quả nguồn phế liệu trong nước
Còn theo PGS. TS Nguyễn Thế Chính – Viện trưởng Viện chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, những nước phát triển không cấm sử dụng túi nilông mà sử dụng giải pháp kinh tế, công nghệ cao và tiêu chuẩn sản phẩm thân thiện với môi trường…
Còn các nước đang phát triển mới sử dụng biện pháp hành chính mạnh mẽ. Mặc dù vậy, việc áp thuế đối với sản phẩm túi nhựa cũng cần có sự điều chỉnh mức thuế và kết hợp với nhiều công cụ, biện pháp khác bởi nếu áp mức thuế quá thấp thì không có tác dụng hoặc người dùng sẽ dần thích nghi với các loại thuế và mất dần tính hiệu quả.
Về công cụ thị trường, PGS. TS Nguyễn Thế Chính cho rằng, đây là quan hệ cung cầu và giá cả, nên tăng cường cung cấp cho thị trường loại túi nilông thân thiện môi trường. Đồng thời, hạn chế sản xuất và cung ứng túi nilông khó phân hủy. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất loại túi nilông thân thiện môi trường ở Việt Nam được đánh giá là có khả năng với công nghệ trong nước, nhưng đưa ra thị trường chưa cạnh tranh. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ kinh tế của Nhà nước để mang tính chất tạo đà trong một thời gian nhất định.
Đồng hành cùng các doanh nghiệp, Bộ Tài Nguyên Môi trường đã và đang tổ chức nhiều hoạt động nâng cao nhận thức và hình thành thói quen tốt trong ứng xử với môi trường. Song song đó, tiếp tục tuyên truyền vận động sâu rộng trong cộng đồng dân cư nâng cao ý thức sử dụng sản phẩm nhựa; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hoạt động tái chế chất thải nhựa, từ đó hướng đến tiêu dùng và sản xuất thân thiện.
Trong đó, hỗ trợ ứng dụng công nghệ sản xuất, kinh doanh mới, nhất là những mô hình sản xuất vật dụng thân thiện với môi trường, từ sản phẩm tái chế tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, an toàn, với những chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế đất đai, đầu tư công nghệ tái chế, sử dụng nguyên liệu nội địa…
Nhân Phương (theo TTXVN)
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này