09:17 - 16/01/2017
Làm sao để bớt doanh nhân vào vòng lao lý?
Những ngày cuối năm 2016, các doanh chủ lại nhấp nhô trước tin một đại gia ngân hàng lâm vào cảnh lao lý. Trong cùng thời điểm, các vụ án liên quan đến giới chủ ngân hàng lại được đưa ra xét xử.
Những con số thất thoát, thiệt hại hàng ngàn tỉ, hàng chục ngàn tỉ đồng…, những quy định bị phớt lờ… Một Việt kiều Mỹ hành nghề luật sư vừa về thăm quê, hỏi tôi: Sao nước ta các doanh nhân vướng vòng lao lý nhiều thế?
Chưa có một thống kê chính thức, nhưng nếu nhìn qua phản ánh từ các phương tiện truyền thông đại chúng thì có lẽ khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân là nơi để xảy ra nhiều vụ án kinh tế hơn cả. Tin tức về các doanh nhân hoặc những người quản lý doanh nghiệp, kẻ bị bắt, người đứng trước vành móng ngựa luôn được nêu nhiều trên báo chí, đến mức giờ đây chúng gần như trở thành những “chuyện thường ngày ở huyện”.
Điều khiến chúng ta không khỏi giật mình là mức độ thiệt hại gây ra trong các vụ án trên đang ngày càng tăng chóng mặt với số tiền hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng/vụ. Năm 2016, riêng một đại án ngân hàng Xây dựng (VNCB) không thôi, đã gây thất thoát tới 9.000 tỉ đồng. Và, bị cáo Phạm Công Danh – nguyên chủ tịch hội đồng quản trị (HĐQT) VNCB, kiêm chủ tịch tập đoàn Thiên Thanh, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn và bằng hành vi gian dối rút tới hơn 18.000 tỉ đồng từ các ngân hàng khác để sử dụng cho mục đích cá nhân. Nếu quy đổi, số tiền này tương đương gần 900 triệu USD – một con số khó thể tưởng tượng nổi!
Theo tôi, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nhức nhối trên từ năng lực quản lý, lòng tham con người, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, suy thoái đạo đức – văn hoá hay các lý do thuộc về khách quan. v.v. Nhưng còn một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng – điều mà tôi muốn đề cập – chính là sự yếu kém của hệ thống phòng ngừa và cảnh báo rủi ro.
Một tờ báo từng cho biết việc thiếu hụt quỹ của ngân hàng Đông Á bắt đầu từ năm 2007, và lãnh đạo ngân hàng này đã chỉ đạo cấp dưới lập các hồ sơ tín dụng khống để lấp đầy các khoản bị thiếu hụt trên. Sai phạm kéo dài… dằng dặc như thế cho đến chín năm sau mới bị cơ quan chức năng phát hiện và khởi tố. Hay như trong vụ VNCB, vì sao bị cáo Phạm Công Danh lại có thể dễ dàng rút ra được một số tiền khủng đến như vậy từ bốn ngân hàng khác nhau?
Câu hỏi đặt ra là: phải chăng “ma trận” kiểm soát nội bộ của các ngân hàng hoạt động không hiệu quả? Vai trò, trách nhiệm giám sát của HĐQT, ban kiểm soát ngân hàng hay cơ quan thanh tra ngân hàng Nhà nước… ở đâu? Họ có thực hiện giám sát và đưa ra cảnh báo hoặc các biện pháp ngăn ngừa hay không? Tôi nghĩ có thể là không, bởi nếu có thì đã không xảy ra cơ sự như ngày hôm nay.
Tình hình của các doanh nghiệp nhà nước thậm chí còn tệ hơn, dù họ được trang bị một hệ thống kiểm tra giám sát phải nói là dày đặc. Có thể kể tên như: cơ quan kiểm toán, Thanh tra Chính phủ, thanh tra chuyên ngành, ban kiểm soát công ty, HĐQT công ty, người đại diện quản lý phần vốn nhà nước, các bộ ngành chủ quản, v.v. Vậy thì vai trò, trách nhiệm của các định chế này ra sao trong việc hàng loạt doanh nghiệp nhà nước năm này qua năm khác cứ lần lượt đổ vỡ, vi phạm pháp luật?
Không nghi ngờ gì nữa, hệ thống phòng ngừa và cảnh báo rủi ro cả hai khu vực quốc doanh và tư nhân đã “ngủ đông” quá lâu. Tư duy “mất bò mới lo làm chuồng” rõ ràng vẫn ngự trị trong nhiều doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước.
Một thực tế ai cũng thấy là ở các doanh nghiệp ban kiểm soát được lập ra hầu hết chỉ mang tính hình thức. Vai trò của họ hoặc là không có tiếng nói gì cả hoặc là hết sức mờ nhạt, mặc dù theo quy định, quyền năng của cơ quan này rất lớn. Chẳng hạn như đối với công ty cổ phần, luật Doanh nghiệp quy định: ban kiểm soát có quyền và nghĩa vụ “thực hiện giám sát HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty”.
Trong một lần trò chuyện với chúng tôi, ông Lê Trọng Nhi, chuyên gia tài chính ngân hàng, đưa ra một con số rất đáng để suy gẫm. Trong vòng ba năm qua có hơn 400 nhân viên, quan chức ngân hàng bị truy tố, trong khi đó các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có ai cả.
Phải chăng do hoạt động phòng ngừa rủi ro của doanh nghiệp nước ngoài tốt hơn doanh nghiệp ta? Điều này khiến tôi nhớ lại câu chuyện cách đây sáu năm. Lần đó, có người bạn luật sư của Baker Mckenzie – một hãng luật nước ngoài tại Việt Nam khoe với tôi một thông tin thú vị. Năm ấy, hãng luật này bỗng dưng “được mùa” bởi những hợp đồng đặc biệt từ các tập đoàn xuyên quốc gia.
Đặc biệt ở chỗ khi thoả thuận hợp đồng, khách hàng chỉ đưa ra yêu cầu là nhờ điều tra xem có hay không hành vi tham nhũng, đưa hối lộ hay bất hợp pháp khác tại các chi nhánh, công ty của họ đang hoạt động ở nước sở tại. Cơ sở để điều tra là các dữ liệu bao gồm hàng trăm tài liệu, văn bản, hợp đồng, chứng từ, thư tín, email… liên quan đến các giao dịch. Các luật sư phải kiểm tra từng dữ liệu và đề xuất phương án giải quyết vụ việc cho khách hàng.
Chuyện thuê luật sư điều tra chống tham nhũng ngay trong nội bộ của mình nghe có vẻ lạ lẫm nhưng lại không mới ở các công ty nước ngoài. Vì là một hình thức phòng ngừa rủi ro của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình, thay vì cứ để nước đến chân mới nhảy.
Rõ ràng, các doanh nghiệp trong nước cần thay đổi nhận thức và nhanh chóng hành động để tự “cứu mình trước khi trời cứu”. Không thể chần chừ được nữa. Không thể để mỗi năm lại có hàng loạt doanh nhân vướng vào vòng lao lý, vừa gây thiệt hại cho bản thân, cho doanh nghiệp, vừa gây tổn thất về nhiều mặt cho cả nền kinh tế và xã hội.
Không thể để các cá nhân và cơ quan được giao nhiệm vụ “canh cửa” vô can mỗi khi “hữu sự” như hiện nay. Hệ thống phòng ngừa, cảnh báo rủi ro cần cải tổ lại một cách hiệu quả và có trách nhiệm hơn.
Ngày Xuân, nói chuyện lao lý, tù tội quả thật chẳng hay ho gì. Tuy nhiên, như cha ông ta thường dạy “ôn cố tri tân” – bàn chuyện đã qua để mơ về một ngày mai tốt đẹp hơn thì chắc độc giả cũng nghĩ cho mà lượng thứ.
LS Nguyễn Tiến Tài
Theo TGTT
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này