10:53 - 31/12/2015
Kinh tế Việt Nam 2016: Giông tín dụng hay mùa nắng ấm?
Chắc chắn rằng những doanh nghiệp và doanh nhân sống sót sau những cơn bão táp của giai đoạn cuối năm 2008 đến cuối năm 2014 không khỏi lo lắng và đặt những câu hỏi lớn về lạm phát – tỷ giá – lãi suất – tín dụng.
Về lạm phát
Lạm phát là một chứng bệnh đáng sợ mà Việt Nam đã trải qua bảy năm (2007 – 2013) vùng vẫy với chứng bệnh này và mức cao nhất là 19,89% năm 2008.
Từ năm 2014, chính sách tiền tệ được ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh với những biện pháp tích cực cộng hưởng với giá nhiên liệu trên thế giới giảm mạnh, nguồn cung lương thực – thực phẩm trong nước tăng đáng kể đã giúp giá tiêu dùng trong nước giảm xuống đều – CPI cả năm 2015 tăng 0,63% thấp nhất trong 11 năm qua. Như vậy, mặc dù cần phải luôn luôn dè chừng, chứng bệnh lạm phát được xem như đang được kiềm chế và hy vọng NHNN sẽ có thêm năng lực và kế sách đúng để kìm giữ ở mức dưới 2 – 3% suốt trong chu kỳ 2016 – 2020.
Về tỷ giá
Trong năm qua, nổi lên cuộc giằng co cả công khai và hậu trường giữa Trung Quốc và Mỹ về sách lược tỷ giá. Trung Quốc nỗ lực miệt mài đưa đồng nhân dân tệ vào rổ đồng tiền dự trữ của IMF. Ngày 11/8/2015, Trung Quốc đã bất ngờ phá giá đồng nhân dân tệ. Điều này đã khiến một loạt các đồng tiền châu Á khác và nhiều chỉ số giá cả trên thị trường hàng hoá quốc tế bị sụt giảm. Hẳn nhiên Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc, NHNN đã áp dụng kế hoạch điều chỉnh kép: tăng thêm và nới biên độ. Kết quả là VND đã mất giá 5,34% trong năm 2015.
Động thái bắt buộc tiền gởi USD với lãi suất 0% cho doanh nghiệp và người dân, ngoài mục đích chống đôla hoá thị trường còn là biện pháp hỗ trợ và góp phần vào việc ổn định tỷ giá trong ngắn hạn. Tuy nhiên, theo dự đoán của riêng tôi, chậm nhất vào đầu quý 2/2016, NHNN sẽ buộc phải điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND hoặc nới biên độ chứ không áp dụng biện pháp điều chỉnh kép như năm 2015.
Tỷ giá USD/VND cũng là một biến số đáng ngại (giảm 2% – 3% – 4%) và những doanh nghiệp liên quan đến xuất nhập khẩu cần và nên tập làm quen với dịch vụ – sản phẩm bảo hiểm tỷ giá.
Về lãi suất và tín dụng
Đây là cặp đôi nóng bỏng mà chắc rằng hầu hết tất cả các doanh nghiệp ngóng chờ nhất. Giả định tích cực là lạm phát 2016 và 2017 sẽ dưới 2 – 3%, thì lãi suất vay 6 – 9% cho ngắn hạn và 9% – 11% trung dài hạn như hiện nay là vẫn còn cao.
Kế sách khả dĩ nào đưa lãi suất về 5 – 6% cho ngắn hạn và 8 – 9% cho trung dài hạn để cộng đồng doanh nghiệp có cơ may tìm và tái tạo lại năng lực tài chính, đầu tư và cạnh tranh cho những năm kế tiếp với các FTA, AEC và TPP?
Có ba điểm nghẽn trong vấn đề này:
Điểm nghẽn số 1: Trái phiếu chính phủ đang cạnh tranh nguồn vốn hữu hạn và chung của nền kinh tế để giải quyết thâm hụt ngân sách trong chi tiêu và đầu tư công. Việc này còn có thể kéo dài.
Điểm nghẽn số 2: Kế hoạch xử lý những khoản nợ xấu đã đưa từ các ngân hàng về VAMC vẫn còn loay hoay, cho nên không thể đưa nhanh nguồn vốn trở vào lại nền kinh tế.
Điểm nghẽn số 3: Mặc dù khá trễ và đã có những thay đổi khá tích cực trong quá trình tái cơ cấu vừa qua, nhưng phải nhìn nhận một cách nghiêm túc là hệ thống ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều bất trắc về nhân sự chuyên nghiệp và yếu kém cơ cấu nguồn vốn – đặc biệt ở đa số các ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh.
Mong mùa nắng ấm
Theo NHNN tăng trưởng tín dụng cuối năm 2015 có thể sẽ lên đến 18% và tín dụng bất động sản tăng cao hơn mức trung bình của hệ thống. Thị trường bất động sản là thiết yếu và cần được phát triển, nhưng cũng chính thị trường bất động sản cũng là mảng tối tai hại của hầu hết tất cả các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới – Việt Nam vừa trải qua mảng tối của thị trường này và những hệ quả vẫn còn đè nặng trên nền kinh tế.
Đang có những tín hiệu tín dụng bất động sản vẫn được ưu ái và chiếm ưu thế hơn trong các lĩnh vực khác. Đây là một tín hiệu của bất cân xứng đang hình thành và trở lại như những năm 2007 – 2008. Nói cách khác, đó là những cơn giông tín dụng. Vì vậy, tín dụng bất động sản trong năm 2016 và những năm sau nữa cần được các cơ quan nhà nước quan tâm và kiểm soát thường xuyên, để tránh những cơn bão táp nợ xấu ập đến.
Nền kinh tế và doanh nghiệp tư nhân đang mong đợi một mùa nắng ấm mới không còn phải hứng chịu những cơn bão táp lớn của nợ xấu từ bất động sản và đầu tư công, không còn phải gánh vác những cơn giông tín dụng từ các ngân hàng. Mùa nắng ấm tín dụng tích cực cho kế hoạch đầu tư và kinh doanh với một thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng và thị trường bên ngoài với các FTA, AEC và TPP.
Mùa nắng ấm này sẽ không và khó có được nếu ba điểm nghẽn trên không được giải quyết.
Lê Trọng Nhi chuyên gia tài chính – ngân hàng
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này