08:44 - 18/03/2016
Cấm xuất khẩu quặng sắt, Trung Quốc được lợi nhất
So sánh giữa giá xuất thế giới là 135 USD, giá Việt Nam xuất lậu là 85 USD, chênh lệch tới 50 USD, tính ra Việt Nam bị thiệt = Trung Quốc được lợi 225 triệu USD, tương đương 4.725 tỷ đồng.
Chính sách cấm xuất khẩu quặng sắt gây tổn thất rất lớn cho Việt Nam, và tạo lợi thế cho chính đối thủ trực tiếp nhất của Việt Nam là Trung Quốc thông qua nhập khẩu lậu quặng thép.
Mới đây, một nghiên cứu độc lập của các chuyên gia kinh tế Fulbright gồm Huỳnh Thế Du, Đỗ Thiên Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Thành, Đinh Công Khải đã phân tích kỹ về vấn đề quặng sắt ở Việt Nam.
Tổng trữ lượng quặng sắt của Việt Nam khoảng 1 – 1,2 tỷ tấn, trong đó 70% là quặng manhetit chất lượng cao, còn lại là quặng limonite có hàm lượng sắt thấp hơn.
Nhìn chung, hầu hết các mỏ sắt này đều đã có “chủ”, các công ty này đều hoặc từng là doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Các lợi ích tiềm năng mà mỏ sắt Thạch Khê mang lại là rất lớn, khiến cho nhiều bên liên quan luôn muốn tăng cường quyền chi phối của mình tại công ty thép Thạch Khê.
Tuy nhiên, những trục trặc trong việc cấp phép và khai thác quặng đã dẫn đến nhiều thiệt hại cho đất nước.
DNNN vì được trao đặc quyền mà gần như không phải bỏ tiền theo một cơ chế cạnh tranh kiểu thị trường để có được nguồn tài nguyên, gây nên tình trạng “chảy máu tài nguyên”.
Luật Khoáng sản 2005: “Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản”, nhưng thực tế không phải mọi tổ chức, cá nhân đều có thể tham gia bình đẳng và cạnh tranh với các DNNN hoặc với các doanh nghiệp có quan hệ thân hữu với chính quyền địa phương.
Đó là chưa kể đến chính sách về quặng sắt thường xuyên không nhất quán, chính sách thuế tài nguyên bất cập, hoặc do động cơ hoặc do năng lực quản lý yếu khiến ngân sách bị thất thu.
Lợi ích lớn nhất của chính sách cấm xuất khẩu quặng sắt hiện nay theo các chuyên gia kinh tế Fulbright là tạo lợi thế cho một số ít những doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng công nghệ lò cao, tạo tích luỹ trong một thời gian để có thể cạnh tranh quốc tế như tập đoàn Hoà Phát, công ty gang thép Thái Nguyên.
Nhưng chính sách này đã gây tổn thất rất lớn cho Việt Nam, và tạo lợi thế cho chính đối thủ trực tiếp nhất của Việt Nam là Trung Quốc thông qua nhập khẩu lậu quặng thép.
Các chuyên gia đặt lại vấn đề liệu Việt Nam có cần phải sản xuất tất cả mọi thứ từ A – Z để theo đuổi mục tiêu thay thế hàng nhập khẩu hay không?
Chiến lược ngành cần phải được tính toán dựa trên các phân tích về lợi ích cạnh tranh, lợi ích và chi phí kinh tế. Chính sách giá năng lượng cũng như giá tài nguyên cần phải phản ánh theo cơ chế thị trường để nguồn lực phân bổ hiệu quả.
Phân tích khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam theo mô hình kim cương, những nhân tố đầu vào, những điều kiện cần, bối cảnh chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp, các ngành hỗ trợ liên quan… nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế Fulbright đưa ra hai phát hiện quan trọng:
Khi giá quặng thế giới đang lên cao, chính sách cấm xuất khẩu quặng lại làm thất thu ngân sách do xuất khẩu lậu quặng sắt năm 2013 là 3.984 tỷ đồng.
Năm 2014, sản lượng quặng sản xuất là 6 triệu tấn, trong đó tiêu thụ trong nước có 1,5 triệu tấn, xuất khẩu lậu tới 4,5 triệu tấn.
So sánh giữa giá xuất thế giới là 135 USD, giá Việt Nam xuất lậu là 85 USD, chênh lệch tới 50 USD, tính ra Việt Nam bị thiệt = Trung Quốc được lợi 225 triệu USD, tương đương 4.725 tỷ đồng.
Trong khi giá các doanh nghiệp trong nước mua là 55 USD, chênh lệch với giá thế giới 80 USD, các doanh nghiệp trong nước được lợi 120 triệu USD.
Nhưng năm 2016, khi giá quặng thế giới giảm, các DNNN và doanh nghiệp thân hữu lại đẻ ra kiến nghị áp dụng biện pháp tự vệ với phôi thép, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, sự đảo chiều liên tục của chính sách đã không tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư, nhất là với một ngành cần sự dài hơi và đầu tư rất lớn như ngành thép.
Nền tảng đi đến thịnh vượng của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều dựa vào các doanh nghiệp tư nhân trong nước, tối kỵ các chính sách gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và tạo lợi thế cho nước ngoài.
Nhưng trên thực tế, chính sách của Nhà nước vẫn theo thứ tự ưu tiên: DNNN, FDI, tư nhân, tạo lợi thế cho chính đối thủ cạnh tranh của Việt Nam, dẫn đến hậu quả cạnh tranh và hiệu quả không được khuyến khích, hoạt động kinh doanh trong nước gặp bất lợi.
Kết luận của nghiên cứu này cho rằng, thứ nhất, trong quá trình đổi mới thể chế, đổi mới cách thức phân bổ nguồn lực theo hướng tập trung vào những đối tượng sử dụng nguồn lực và mang lại nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Cần ra soát lại các chính sách và chiến lược phát triển các ngành.
Thứ hai, hạn chế tối đa tác động của Trung Quốc tham gia trong lĩnh vực này.
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, việc mở cửa hoàn toàn xuất khẩu quặng sắt có thể vấp phải những trở lực rất lớn. Nên cho phép xuất khẩu quặng sắt và áp dụng mức thuế 15% như Ấn Độ đang làm.
Thứ tư, siết chặt việc cấp phép khai thác và chế biến quặng sắt trên cơ sở minh bạch hoá quy trình; tăng cường quản lý chặt thuế tài nguyên của cơ quan thuế địa phương.
Thứ năm, việc thiết kế và ban hành các chính sách của Nhà nước nên theo hướng ổn định và dài hạn, để giảm thiểu rủi ro đối với các doanh nghiệp.
Mai Phương
Thế Giới Tiếp Thị
Ý kiến của bạn về bài viết
Không có chức năng bình luận cho bài viết này